Bản án 111/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 111/2019/HS-ST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 129/2019/HSST/TLST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Văn Đ, sinh năm 1990. Nơi cư trú: Xã Gi, huyện Gi, tỉnh N; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Vũ Văn C và bà Cao Thị T; Tiền án; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 08/4/2013 Công an huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính về hành vi “ Che giấu người khác phạm tội trộm cắp tài sản”; Ngày 18/8/2015 Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 18/12/2018; tạm giam từ ngày 27/12/2018; “ Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân có sử dụng ma túy, nên khoảng 13h ngày 18/12/2018, Vũ Văn Đ đi đến khu trang trại hồ sông Rùa, phố Xuân Minh, phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa mua của Nguyễn Quốc Ngọc A 01 gói Hêrôin với giá 200.000đ, sau khi mua được ma túy, Đ cất giấu vào túi quần mang về sử dụng, khi Đ ra đến công trang trại thì bị Công an thành phố Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang.

Căn cứ lời khai của bị cáo, cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, đối chất giữa bị cáo và Nguyễn Quốc Ngọc A, nhưng Nguyễn Quốc Ngọc A không thừa nhận có hành vi bán ma túy cho bị cáo, ngoài lời khai của bị cáo không có chứng cứ nào khác để chứng minh, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với Nguyễn Quốc Ngọc A.

Căn cứ vào bản kết luận giám định số 207/MT-PC09 ngày 22/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,186 gam, loại Hêrôin.

Tại bản cáo trạng số 113/CT-VKS ngày 19 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hóa truy tố bị cáo Vũ Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hóa luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” đông thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 3 8 BLHS; đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 18 đến 24 tháng tù;

Bị cáo nhận tội và công nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng và không có ý kiến tranh luận, trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Công an thành phố Thanh hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, nên khoảng 13h00’ ngày 18/12/2018, Bị cáo ra khu vực trang trại hồ sông Rùa, phố Xuân Minh, phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa mua 01 gói Hêrôin có khối lượng 0,186 gam, với giá 200.000đ, bị cáo mua về với mục đích để sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an thành phố Thanh Hóa phát hiện bắt giữ. Lời khai của bị cáo tại phiên toà hôm nay thống nhất với lời khai trước đây bị cáo đã khai nhận tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mua ma túy về với mục đích sử dụng của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS, như cáo trạng và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, mức độ phạm tội và trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi những hậu quả rất nghiêm trọng do việc mua bán, vận chuyển, nghiện chất ma túy gây ra. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, bị cáo hiểu rõ về tác hại của ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, do đó cần phải được xử lý nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính phòng ngừa chung.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng: Mặc dù bị cáo không có tình tiết tăng nặng, tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu. Ngày 08/4/2013 Công an huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xử phạt hành chính về hành vi “ Che giấu người khác phạm tội trộm cắp tài sản”; Ngày 18/8/2015 Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/8/2016, nay bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, điều đó chứng tỏ bị cáo không chịu rèn luyện bản thân, xem thường pháp luật, nên cần phải được xử lý nghiêm minh..

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Do bị cáo mua ma túy với mục đích sử dụng, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để sung quỹ Nhà nước là phù hợp pháp luật.

[6] Về vật chứng: số ma túy thu của các bị cáo có trọng lượng 0,186 gam, mẫu vật còn lại sau giám định 0,165 gam được niêm phong là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 1, điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt: Vũ Văn Đ 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/12/2018.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,165 gam ma túy (mẫu vật còn lại sau giám định) được niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 125 ngày 03 tháng 4 năm 2019 giữa Công an Thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh hóa.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí HSST.

Người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 111/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về