Bản án 106/2018/HS-ST ngày 25/12/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 106/2018/HS-ST NGÀY 25/12/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gt, tỉnh NĐ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 103/HSST ngày 01 tháng 12 năm 2018, quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Quốc H- Sinh năm 1983 tại huyện XT, tỉnh NĐ; nơi ĐKHKTT: Xóm 18 xã Xuân Hòa, huyện XT, tỉnh NĐ. Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Quang R sinh năm 1956 và bà Bùi Thị Dsinh năm 1958; Vợ Cao Mỵ N sinh năm 1988; có 01 con sinh năm 2012.Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 12/8/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 30 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 29/01/2016; bị cáo bị bắt tạm giam tính từ ngày bị bắt tạm giữ 04/9/2018 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định.

Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Thành L - Sinh năm 1987; địa chỉ: Xóm 3 QT xã GT, huyện GT, tỉnh NĐ.

- Anh Lê Mạnh H - Sinh năm 1986; địa chỉ: Xóm 5 Quyết Thắng xã Giao Tiến, huyện GT, tỉnh NĐ.

- Ông Phạm Quang R - Sinh năm 1956. Địa chỉ: Xóm 18 xã XH, huyện XT, tỉnh NĐ.

- Anh Lê Văn D - Sinh năm 1963. Địa chỉ: Xóm 18 xã XH, huyện XT, tỉnh NĐ.

Ti phiên tòa: Bị cáo có mặt; người làm chứng vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ 40 phút ngày 04/9/2018, tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực nghĩa trang BL thuộc xóm 5 QT xã GT phát hiện Phạm Quốc H đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn (cất giấu trái phép chất ma túy). Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra hành chính đối với H và đã phát hiện thu giữ trong túi quần bên phải của H 01 gói giấy báo bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, được niêm phong ký hiệu M. H khai là gói ma túy Hvừa mua để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định và bàn giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy để điều tra, xử lý.

Ngày 04/9/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy đã đưa gói chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Hđi giám định. Tại bản kết luận giám định số: 780/GĐKTHS ngày 05/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: “Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy báo được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,256 gam.

Ti Cơ quan cảnh sát điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 103/CT-VKS ngày 30/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố bị cáo Phạm Quốc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi cất giấu trái phép 01 gói Heroine, khối lượng là 0,256 gam. Như vậy hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Quốc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Quốc H từ 24 đến 30 tháng tù.Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số heroine hoàn trả mẫu vật sau giám định.

Bị cáo Phạm Quốc H nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được miễn hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc kHnại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 15 giờ 40 phút ngày 04/9/2018, tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực nghĩa trang BL thuộc xóm 5 QT, xã GT phát hiện bắt quả tang Phạm Quốc H có hành vi cất giấu trái phép 01 gói Heroine có trọng lượng (khối lượng) 0,256 gam với mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức ma túy là hiểm họa của mỗi gia đình và cộng đồng xã hội là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội, gia tăng tội phạm hình sự, xâm phạm tới đạo đức và sức khỏe con người. Bị cáo biết việc làm của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của ma tuý nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đã từng phải chấp hành án 30 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo với tính chất nghiêm trọng, buộc bị cáo phải tập trung cải tạo một thời gian để giáo dục riêng đối với bị cáo và đáp ứng công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[3] Khi quyết định hình phạt, HĐXX xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu cho tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả mẫu vật sau giám định.

Về nguồn gốc số Heroine Hcất giấu để sử dụng trái phép cho bản thân, H khai mua của người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực ngã ba dốc HN xã GT. Quá trình điều tra không xác định được đối tượng đã bán ma túy cho Hnên CQĐT không có căn cứ để xử lý.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Quốc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt: Bị cáo Phạm Quốc H 27 (Hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/9/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 30/11/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Phạm Quốc H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Phạm Quốc H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2018/HS-ST ngày 25/12/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:106/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về