Bản án 102/2019/HSST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 102/2019/HSST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 105/2019/HSST ngày 02 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2019/QĐXXST - HS ngày 17 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đào Hữu T, sinh năm 1987; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã A, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn C, xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Hữu H (đã chết) và bà Trần Thị Th, sinh năm 1962; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 25/6/2019 đến ngày 04/7/2019 chuyển tạm giam; có mặt.

2. Chu Văn Th, sinh năm 1994; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã N, huyện H, tỉnh Cao Bằng; nơi cư trú: Thôn C, xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Văn Đ, sinh năm 1955 và bà Đàm Thị O, sinh năm 1964; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 25/6/019 đến ngày 04/7/2019 chuyển tạm giam; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Đào Hữu T: Bà Lương Thị Thủy – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ, ngày 25/6/2019, Tổ công tác Công an huyện Thủy Nguyên kết hợp với Công an xã T làm nhiệm vụ tại khu vực thôn 5, xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng phát hiện Chu Văn Th, Đào Hữu T có biểu hiện nghi vấn cất giữ trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an thu giữ tại túi áo phía trước bên trái của Đào Hữu T đang mặc có 02 gói giấy màu trắng đều chứa chất bột màu trắng (nghi là chất ma túy); tạm giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 16H3 – 0321. Tổ công tác đưa Th, T cùng vật chứng về trụ sở Công an giải quyết.

Tại bản Kết luận giám định số 357 ngày 26/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng trong 02 gói giấy màu trắng thu của T là chất ma túy, có khối lượng 0,2017gam, là loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Đào Hữu T và Chu Văn Th khai: Đào Hữu T và Chu Văn Th có quan hệ quen biết và cùng làm thuê cho anh Đồng Sỹ Nguyên, sinh năm 1977, trú tại thôn Chu Vườn, xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Do đều nghiện ma túy nên khoảng 11 giờ, ngày 25/6/2019, T, Th rủ nhau góp mỗi người 100.000 đồng được số tiền 200.000 đồng để mua ma túy, loại Heroine về sử dụng, T là người trực tiếp cầm tiền. Sau đó, T, Th đến gặp anh Ng mượn xe mô tô biển kiểm soát 16H3 – 0321 và nói là đi có việc, anh Ng không biết T, Th sử dụng xe để đi mua ma túy nên đã đồng ý. T điểu khiển xe mô tô chở Th sang khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng, tại đây T bảo Th xuống xe đứng đợi còn T một mình điều khiển xe vào trong khu vực đường tàu mua của một người phụ nữ không quen biết 02 gói Heroine với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cất giấu trong túi áo ngực phía trước bên trái rồi đi ra chỗ Th và nói đã mua được ma túy. Sau đó, Th điều khiển xe mô tô chở T về huyện Thủy Nguyên để tìm nơi sử dụng chất ma túy. Khi T, Th về đến khu vực thôn 5, xã T, huyện Thủy Nguyên thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ cùng vật chứng như trên.

Tại Cáo trạng số 102/CT-VKS ngày 25 tháng 9 năm 2019 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đã truy tố Đào Hữu T, Chu Văn Th về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Đào Hữu T, Chu Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã nêu. Các bị cáo tỏ thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.

Kiểm sát viên sau khi phân tích đánh giá tính chất vai trò của các bị cáo trong vụ án, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân từng bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đào Hữu T từ 24 (hai mươi tư) tháng đến 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 25 tháng 6 năm 2019.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Chu Văn Th từ 24 (hai mươi tư) tháng đến 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 25 tháng 6 năm 2019.

Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo, xử lý vật chứng và buộc bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo Th là người dân tộc Tày thuộc đồng bào dân tộc thiểu số, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội đề nghị Hội đồng xét xử miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Th.

Người bào chữa cho bị cáo Chu Văn Th không tranh luận về tội danh, điều luật và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Viện kiểm sát đã truy tố mà chỉ đưa thêm các tình tiết bị cáo là người thuộc đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải, từ đó người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ăn năn hối cải quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và tình tiết bị cáo là người thuộc đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo mức hình phạt dưới mức hình phạt thấp nhất mà Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo Chu Văn Th.

Trong vụ án này, còn có đối tượng bán trái phép chất ma túy cho T, Th tài liệu điều tra không xác định được căn cước, lai lịch nên không có cơ sở để điều tra. Anh Đồng Sỹ Nguyên cho T, Th mượn xe mô tô nhưng không biết việc T, Th sử dụng xe đi mua ma túy nên Công an huyện Thủy Nguyên không xử lý. Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 16H3 - 0321, anh Nguyên khai mua của người không quen biết, không có giấy đăng ký xe mô tô, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan điều tra tách ra xác minh, làm rõ xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Hành vi, quyết định tố tụng của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai nhận của các bị cáo Đào Hữu T, Chu Văn Th tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với Kết luận giám định số 357/KLGĐ (Đ6) ngày 26 tháng 6 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ kết luận: Do thường xuyên sử dụng ma túy nên khoảng 11 giờ, ngày 25/6/2019, Đào Hữu T và Chu Văn Th bàn bạc chung tiền mua ma túy để sử dụng. Sau khi bàn bạc vói nhau, T điều khiển xe mô tô chở Th sang khu vực đường tàu thuộc nội thành Hải Phòng mua của một người không quen biết 02 gói Heroine có khối lượng 0,2017 gam. Heroine là chất ma túy được quy định trực tiếp trong Bộ luật hình sự. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc cá nhân không được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền mà tự ý giữ, cất giấu ma túy là trái pháp luật. Nhưng vì các bị cáo thường xuyên sử dụng ma túy nên các bị cáo vẫn mua và cất giữ ma túy trong người để sử dụng cho bản thân. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, kết luận bị cáo Đào Hữu T và Chu Văn Th đồng phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy vi phạm điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3]. Tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Mặt khác, tệ nạn ma tuý đang là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, hạ thấp phẩm giá con người. Nhà nước ta đã có chính sách xử lý nghiêm khắc đối với loại tội phạm này song tình hình tội phạm về ma tuý vẫn đang có diễn biến phức tạp. Vì vậy cần phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân từng bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Bị cáo Th là người thuộc đồng bào dân tộc thiểu số song bị cáo có trình độ văn hóa tốt nghiệp trung học cơ sở nên bị cáo không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng tuy nhân thân các bị cáo chưa có tiền án tiền sự song tội phạm mà các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, các bị cáo đều là những người thường xuyên sử dụng ma túy nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[5]. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn các bị cáo có sự bàn bạc từ trước nên cần phân hóa vai trò của từng bị cáo làm cơ sở cho việc lượng hình. Trong vụ án này, bị cáo T là người đề xuất với Th về việc góp tiền mua ma túy và là người trực tiếp giao dịch mua ma túy, cất giấu ma túy trong người. Do vậy, bị cáo T có vai trò cao hơn so với bị cáo Th nên mức hình phạt áp dụng với bị cáo T phải cao hơn mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo Th.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét các bị cáo đều không có tài sản riêng và không có thu nhập nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng: Hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên đang quản lý: 01 bì thư niêm phong số 357/2019/PC09 chứa số ma túy và vỏ bao bì sau giám định. Xét số ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo Chu Văn Th là người dân tộc Tày thuộc đồng bào dân tộc thiểu số, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội đề nghị Hội đồng xét xử miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Th. Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Đào Hữu T 30 (ba mươi) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25 tháng 6 năm 2019.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Chu Văn Th 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25 tháng 6 năm 2019.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong số 357/2019/PC09 chứa số ma túy và vỏ bao bì sau giám định (Các vật chứng có đặc điểm được mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 30 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm. thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:

Bị cáo Đào Hữu T phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Chu Văn Th.

Các bị cáo Đào Hữu T, Chu Văn Th có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 102/2019/HSST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:102/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về