Bản án 06/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĂM CĂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 06/2020/HS-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2020/TLST- HS ngày 30 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T, sinh ngày 05/01/1998; nơi đăng ký thường trú: Ấp B, xã Q, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn G và bà Điền Thị N; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 31/12/2019; tạm giam ngày 09/01/2020 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 12 giờ 45 phút, ngày 31/12/2019, tại quán cà phê Trang thuộc khóm Cái Nai, thị trấn Năm Căn, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau, tổ công tác thuộc Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 4 Bộ tư lệnh Cảnh sát biển phối hợp với Công an thị trấn Năm Căn và Công an huyện Năm Căn tiến hành kiểm tra phát hiện và bắt quả tang đối tượng Nguyễn Minh T đang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Qua đó thu giữ tang vật gồm:

- 01 (một) bịch ny long màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể trong suốt dạng rắn (nghi là ma túy) được thu giữ phía trong nón vải màu đen mà T đang đội, đã được niêm phong trong phong bì màu trắng hình chữ nhật bên ngoài tên cơ quan chủ trì niêm phong cùng ngày tháng năm niêm phong, chữ ký và họ tên Nguyễn Minh T và dấu tròn đỏ của Công an thị trấn Năm Căn;

- 01 (một) nón vải màu đen;

- 01 (một) điện thoại di động màu đen có chữ ITel đã qua sử dụng, bên trong có sim số 0912.386.640, trên sim có số si ri 89840,20001,09572,51135.

- Tiền Việt Nam đồng là 900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng);

- 01 (một) xe máy nhãn hiệu Nouvo, loại xe nữ, màu sơn nâu – bạc có BKS 69M1-1979 đã qua sử dụng;

- 01 (một) giấy đăng ký xe máy, mô tô có tên Vương Châu B. Địa chỉ Chống Mỹ, Hàm Rồng, Năm Căn, Cà Mau có BKS đăng ký 69M1 0979.

Tại Kết luận giám định số 01/GĐMT-PC09 ngày 02/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,22,92 gam, loại Methamphetamine.

Qua điều tra xác định: Nguyễn Minh T là đối tượng nghiện ma túy nên khoảng 12 giờ ngày 31/12/2019, T dùng số điện thoại 0912.386.640 của T gọi vào số 0915.299.762 của một người thanh niên tên T (không biết họ, tên đệm và địa chỉ) để mua ma túy với giá 400.000 đồng thì Tâm đồng ý và hẹn đến quán cà phê Trang thuộc khóm Cái Nai để giao dịch mua ma túy.

Khong 12 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô BKS 69M1 – 0979 đến cà phê Trang thì không gặp T, T gọi điện thoại cho T thì được T chỉ nơi cất giấu ma túy trên vách tường bên trái trong quán cà phê theo hướng từ ngoài nhìn vào trong. T đi đến vị trí cất giấu ma túy, T lấy ma túy đặt vào trong nón vải màu đen rồi đội nón lên đầu và đi ra xe về thị bị lực lượng chức năng kiểm tra và bắt quả tang.

Tại biên bản về việc thử nước tiểu lúc 14 giờ 55 phút ngày 31/12/2019 xác định Nguyễn Minh T có sử dụng trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra, Nguyễn Minh T thừa nhận do có sử dụng ma túy nên mua ma túy của T nhằm mục đích để sử dụng và không có mục đích khác. Ngoài ra việc T sử dụng ma túy thì những người trong gia đình T không biết.

Ngoài lần bị bắt quả tang ra, Nguyễn Minh T xác định còn mua ma túy của T thêm 03 lần trước đó với mục đích tàng trữ để sử dụng. Các lần mua này T chỉ nhớ số tiền mua ma túy nhưng không nhớ cụ thể thời gian và Cơ quan điều tra cũng không thu giữ được chất ma túy nên không có căn cứ xử lý T về các lần tàng trữ ma túy này.

Tại Công văn số 36/TTKDCM-HĐHV ngày 07/02/2020 của Trung Tâm kinh doanh VNPT- Cà Mau xác định: Số thuê bao 0915.299.762 có tên đăng ký là Văn Đức P, ngày kích hoạt 05/6/2019, ngày sinh 01/01/1993, số giấy chứng minh nhân dân là … có địa chỉ ở Phường 5, Thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.

Tiến hành làm việc với Văn Đức P: P khai nhận không có đăng ký sử dụng sim số 0915.299.,,, không có quen biết ai tên Nguyễn Minh T sinh ngày 05/01/1998 ở ấp B, xã Q, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.

Ngày 15/01/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Năm Căn đã trả lại cho anh Vương Châu B 01 (một) xe máy nhãn hiệu Nouvo, loại xe nữ, màu sơn nâu – bạc có BKS 69M1-19… đã qua sử dụng và 01 (một) giấy đăng ký xe máy, mô tô có tên Vương Châu B, địa chỉ Chống Mỹ, Hàm Rồng, Năm Căn, Cà Mau.

Ngày 15/02/2020 Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Nguyễn Văn G số tiền 900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số: 08/CT-VKS ngày 30 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau truy tố đối với bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Về tội danh và hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với mức án từ 01 đến 01 năm 06 tháng tù;

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 01/GĐMT-PC09, ngày 02 tháng 01 năm 2020, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh Trường S, trợ lý giám định Phùng Thúy A, nhân viên Đặc nhiệm điều tra Bùi Văn B và hai hình tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng là chất nhà nước cấm lưu hành, sử dụng; sim số 0912.386…, trên sim có số si ri 89840,20001,09572,51… và 01 nón vải màu đen của bị cáo do bị cáo không nhận lại và không còn giá trị;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu đen có chữ ITel đã qua sử dụng.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Năm Căn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Năm Căn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an huyện Năm Căn, cáo trạng Viện kiểm sát huyện Năm Căn, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng xác định mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,22.92 gam, loại Methamphetamine và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở pháp lý xác định hành vi của Nguyễn Minh T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, bất chấp những quy định của pháp luật, kể cả việc trừng trị của pháp luật. Do đó, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và tiếp tục học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có người có công cách mạng nên áp dụng điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với 01 (một) phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 01/GĐMT-PC09, ngày 02 tháng 01 năm 2020, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh Trường S, trợ lý giám định Phùng Thúy A, nhân viên Đặc nhiệm điều tra Bùi Văn B và hai hình tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng là chất nhà nước cấm lưu hành và sử dụng nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy; sim số 0912.386… trên sim có số si ri 89840,20001,09572,51… bị cáo dùng liên lạc mua ma túy nên cũng tiêu hủy; 01 nón vải màu đen của bị cáo do bị cáo không nhận lại và không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu đen có chữ ITel đã qua sử dụng là phương tiện bị cáo sử dụng liên lạc mua ma túy.

(Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Năm Căn đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/3/2020).

[6] Đối với đối tượng tên T, người bán ma túy cho T, hiện Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch nên chưa có cơ sở để xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau. Đối với Vương Châu B khi T sử dụng xe của B đi mua ma túy thì B không biết nên Cơ quan Điều tra trả lại xe cho B và không xử lý B là có căn cứ. Đối với Văn Đức P không đủ chứng cứ chứng minh P là người bán ma túy cho T nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xác minh khi có căn cứ xử lý sau là phù hợp. Cơ quan Điều tra trả lại số tiền 900.000 đồng cho ông G (cha bị cáo) do tiền không liên quan đến việc phạm tội là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 31/12/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu và tiêu 01 (một) phong bì màu trắng, bên ngoài ghi “Niêm phong vụ số 01/GĐMT-PC09, ngày 02 tháng 01 năm 2020, có chữ ký ghi họ tên của Giám định viên Phạm Thanh Trường S, trợ lý giám định Phùng Thúy A, nhân viên Đặc nhiệm điều tra Bùi Văn B và hai hình tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; 01 sim số 0912.386…, trên sim có số si ri 89840,20001,09572,51… và 01 nón vải màu đen.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu đen có chữ ITel đã qua sử dụng.

(Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Năm Căn đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/3/2020).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về kháng cáo: Án xử sơ thẩm, bị cáo và bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Năm Căn - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về