Bản án 06/2020/HSST ngày 09/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ-TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 06/2020/HSST NGÀY 09/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, Tp. Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2019/TLST- HS ngày 20 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Dương Phú T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 13/3/1997 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ 25, phường M, quận S, Thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Phú N (Dương Phú C) và bà Nguyễn Thị Tố N; Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Thu L, sinh năm 1999, chưa có con;

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt phạm tội quả tang ngày 12/11/2019 có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Bà Nguyễn Thị Tố N. Sinh năm: 1978. Nơi cư trú: Tổ 25 phường M, quận S, Thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 10 giờ 15 phút ngày 12/11/2019, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Sơn Trà phối hợp với công an phường Mân Thái tiến hành kiểm tra hành chính tại số nhà K25/53 Trương Định, phường M, quận S, TP Đà Nẵng. Qua kiểm tra lực lượng công an phát hiện tại phòng ngủ trên gác lửng có đối tượng Dương Phú T. Tiếp tục kiểm tra căn phòng trên phát hiện trên bàn cạnh giường ngủ có 01 (một) ống thủy tinh và trong lọ đựng bút vật dụng sinh hoạt có 01 (một) gói ni lông kích thước khoảng (2x4)cm bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng mà T khai nhận là ma túy đá mua về để sử dụng. Lực lượng công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Dương Phú T, thu giữ niêm phong tang vật có liên quan theo quy định pháp luật.

*Tang vật thu giữ:

- 01 (một) gói ni lông kích thước khoảng (2x4)cm bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng. Bì niêm phong kí hiệu: T - 01(một) ống thủy tinh.

Căn cứ Kết luận giám định số: 311/GĐ-MT ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng: Mẫu tinh thể trong bì niêm phong ký hiệu T gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine; khối lượng mẫu tinh thể T: 0,666 gam.

Qua điều tra ban đầu xác định: Lúc 22 giờ ngày 11/11/2019, Dương Phú T nảy sinh ý định sử dụng trái phép chất ma túy nên đã nhờ một đối tượng tên P (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mua giúp 2.000.000 đồng tiền ma túy nhằm mục đích sử dụng. Sau đó, P đến nhà T lấy trước 2.000.000 đồng để mua ma túy, P đi khoảng 15 phút sau đó quay lại nhà T đưa cho T 01 gói nilong kích thước (2x4)cm bên trong có chứa ma túy đá. Sau khi mua được ma túy, T đã rủ một đối tượng tên D (chưa rõ nhân thân, lai lịch) cùng sử dụng trái phép chất ma túy (D không góp tiền mua ma túy cùng với T). Sau khi sử dụng ma túy xong D đi về nhà, số ma túy còn lại T đem cất giấu trong phòng ngủ thì đến 10 giờ 15 phút ngày 12/11/2019 bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, thu giữ cùng tang vật.

Tại bản cáo trạng số: 05/CT- VKS ngày 19/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Dương Phú T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Qua xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa:

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên tòa phát biểu giữ nguyên cáo trạng đã truy tố bị cáo và căn cứ vào tính chất, hành vi thực hiện tội phạm, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Dương Phú T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS xử phạt Dương Phú T từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong hoàn trả sau khi giám định số 311/GĐ-MT ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, 01(một) ống thủy tinh.

Bị cáo Dương Phú T thừa nhận hành vi phạm tội của mình là tàng trữ trái phép 0,666 gam chất ma túy Methamphetamine để sử dụng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Sơn Trà khởi tố, Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà truy tố, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo thực sự ăn năn, hối cải, mong HĐXX xem xét khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Sơn Trà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người chứng kiến không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo Dương Phú T đã khai nhận vào khoảng 22 giờ ngày 11/11/2019, bị cáo nhờ một đối tượng tên P (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mua giúp 2.000.000 đồng tiền ma túy để nhằm mục đích sử dụng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo rủ một đối tượng tên D (chưa rõ nhân thân, lai lịch) cùng sử dụng. Sau khi bị cáo và D sử dụng xong, số ma túy còn lại bị cáo cất giấu trong phòng ngủ của bị cáo tại số nhà K25/53 Trương Định, phường M, quận S, TP Đà Nẵng. Đến 10 giờ 15 phút ngày 12/11/2019, bị cáo bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an quận Sơn Trà tiến hành kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang bị cáo đang tàng trữ trái phép 0,666 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các chứng cứ, tài liệu điều tra thu thập có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận bị cáo Dương Phú T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng truy tố bị cáo theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Ma tuý hiện đang là tệ nạn của xã hội, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, lao động, học tập của con người và là nguyên nhân của các tội phạm khác như: Trộm cắp, cướp giật, giết người ... làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn xã hội, đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân làm lây lan căn bệnh thế kỷ HIV- AIDS. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm tuyên truyền, quán triệt sâu rộng trong nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: Báo chí, phát thanh, truyền hình ... Các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng đưa ra xét xử nghiêm khắc trừng trị loại tội phạm này nhằm răn đe, phòng ngừa. Bị cáo Dương Phú T nhận thức rõ được những tác hại đó nhưng do thiếu ý thức rèn luyện, ham chơi đua đòi, xem thường pháp luật và để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân nên bị cáo đã thực hiện việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý không những xâm phạm tới chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn xã hội, gây bất ổn trong nhân dân trên địa bàn Tp Đà Nẵng nói chung và địa bàn quận Sơn Trà nói riêng. Do đó đối với bị cáo cần phải lên cho một mức án thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra môi trường cộng đồng một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, cũng cần xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt do bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Do không xác minh được về tài sản của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Dương Phú T theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 0,517 gam ma túy loại Methamphetamine trong một phong bì niêm phong hoàn trả sau khi giám định số 311/GĐ-MT ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, 01(một) ống thủy tinh. Toàn bộ số vật chứng trên là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên HĐXX tịch thu, tiêu hủy.

Toàn bộ vật chứng này hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/12/2019. [6] Đối với đối tượng tên P đã đi mua ma tuý cho bị cáo và đối tượng tên D cùng sử dụng trái phép chất ma tuý với bị cáo do chưa xác định nhân thân, lai lịch, Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà tách ra tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau là phù hợp.

[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Công an quận Sơn Trà đã ra Quyết định xử lý hành chính là phù hợp.

[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà về áp dụng điều luật, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như phần xử lý vật chứng là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[9] Án phí HSST: Bị cáo Dương Phú T phải chịu 200.000đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Dương Phú T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Dương Phú T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt phạm tội quả tang ngày 12/11/2019.

2/ Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu, tiêu hủy một phong bì niêm phong hoàn trả sau khi giám định số 311/GĐ-MT ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng bên trong có chứa 0,517 gam ma túy loại Methamphetamine, 01(một) ống thủy tinh.

Toàn bộ vật chứng này hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/12/2019.

3/ Án phí HSST: Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí HSST bị cáo Dương Phú T phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Báo cho những người tham gia tố tụng biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

650
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HSST ngày 09/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về