Bản án 05/2019/DS-ST ngày 26/07/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH V

BẢN ÁN 05/2019/DS-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 26 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh V mở phiên tòa công khai xét xử vụ án dân sự thụ lý số: 16/2019/TLST-DS ngày 02 tháng 5 năm 2019 về việc“ Tranh chấp hợp đồng tín dụng ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2019/QĐXX-DS ngày 01 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Quốc tế Việt Nam (VIB).

Địa chỉ: Tầng 1, 2 Tòa nhà SaiLing Tower, 111A Pasteur, phường Bến Nghé, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hàn Ngọc V – Tổng giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị Thu H – Giám đốc Trung tâm Quản lý nợ khách hàng cá nhân (theo văn bản ủy quyền số 3.0141.17 ngày 16/01/2017).

Người được ủy quyền lại: Ông Đỗ Minh Đ, sinh năm 1992 - Cán bộ Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam, có mặt (theo văn bản ủy quyền số 3.0287.19 ngày 30/01/2019).

Bị đơn:

1. Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1987, vắng mặt

2. Chị Bùi Thị Y, sinh năm 1990, vắng mặt

Đều cư trú: Thôn D, xã L, huyện L, tỉnh V.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 01 năm 2019 và các lời trình bày tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Đỗ Minh Đ trình bày:

Ngày 30/3/2016 Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (gọi tắt là VIB) đã ký Hợp đồng tín dụng số: 018CN116.HĐTD.16 với Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y ở thôn D, xã L, huyện L, tỉnh V. Cụ thể, Ngân hàng chấp thuận cho anh Th, chị Y vay số tiền là 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng chẵn). Mục đích vay: Để sửa chữa nhà ở trên nền đất cũ. Thời hạn vay: 120 tháng, kể từ ngày 30/3/2016 đến ngày 30/3/2026. Lãi suất vay: Lãi suất cố định 8,49%/năm trong 06 tháng đầu, từ tháng thứ 07 trở đi lãi suất cho vay điều chỉnh 03 tháng/lần bằng lãi suất tiết kiệm không thường kỳ 12 tháng (tính lãi cuối kỳ) do VIB công bố tại thời điểm điều chỉnh cộng biên độ 3,6%/năm, phù hợp với các quy định của pháp luật, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chính sách của VIB từng thời kỳ. Phương thức trả nợ: Trả nợ gốc hàng tháng vào ngày 26 với số tiền 2.500.000đ/tháng, ngày trả nợ gốc đầu tiên là 26/4/2016. Trả nợ lãi hàng tháng vào ngày 26 hàng tháng tính theo dư nợ thực tế. Ngày trả lãi đầu tiên 26/4/2016.

Hợp đồng tín dụng này được bảo đảm bằng hợp đồng thế chấp tài sản số: 116.16.HDDTC.BĐ ngày 28/03/2016 và được công chứng số:1091/2016/HĐTC, quyển số: 08TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/3/2016. Theo đó, anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y đã dùng tài sản thế chấp là quyền sử dụng 708m2 đất thuộc thửa số 215, tờ bản đồ số 21 thuộc thôn D, xã L, huyện L, tỉnh V, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: CH002114 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 15/5/2013 cho ông Nguyễn Văn Th. Tài sản theo hợp đồng này bao gồm nhưng không giới hạn các vật phụ, hoa lợi, lợi tức, các quyền phát sinh từ tài sản thế chấp, tài sản hay tiền đền bù, bồi thường của cơ quan nhà nước hoặc bên thứ ba bất kỳ và toàn bộ các quyền, quyền lợi theo hợp đồng bảo hiểm ký giữa bên B và công ty bảo hiểm bất kỳ được bên A chấp thuận.

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất được công chứng tại Văn phòng công chứng Vĩnh Phú và đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh V, chi nhánh L theo đúng quy định của pháp luật.

Sau khi ký kết hợp đồng tín dụng, Ngân hàng VIB đã giải ngân cho anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y, tổng số tiền vay là 300.000.000đ ( Ba trăm triệu đồng) theo khế ước nhận nợ ngày 30/3/2016.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình theo đúng nội dung hợp đồng tín dụng đã ký (trả một phần gốc và lãi vào ngày 26 hàng tháng). Ngân hàng VIB đã nhiều lần làm việc với anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y để yêu cầu trả nợ vay đúng thời hạn quy định trong hợp đồng, nhưng anh Th, chị Y không thực hiện và đã vi phạm các điều khoản đã ký trong hợp đồng tín dụng nên Ngân hàng VIB đã chuyển khoản vay trên thành nợ quá hạn từ ngày 27/11/2017. Trong quá trình trả nợ vay, anh Th và chị Y đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng VIB tính đến ngày xét xử sơ thẩm 26/7/2019 là 91.414.207đ (Chín mươi mốt triệu bốn trăm mười bốn nghìn hai trăm linh bảy đồng), trong đó: nợ gốc là: 47.808.745đ, lãi trong hạn là: 43.605.462đ và còn nợ Ngân hàng VIB tổng số tiền là: 359.824.120đ (Ba trăm năm mươi chín triệu tám trăm hai tư nghìn một trăm hai mươi đồng), trong đó nợ tiền gốc là: 252.191.255đ, lãi trong hạn là: 33.741.528đ, lãi quá hạn là: 73.891.337đ. Số tiền nợ gốc quá hạn và lãi trên, Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc song vợ chồng anh Th vẫn không thanh toán đúng hạn như đã cam kết trong hợp đồng. Nay Ngân hàng VIB yêu cầu buộc anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y trả nợ cho Ngân hàng VIB tổng số tiền là: 359.824.120đ (Ba trăm năm mươi chín triệu tám trăm hai tư nghìn một trăm hai mươi đồng), trong đó nợ tiền gốc là: 252.191.255đ, lãi trong hạn là: 33.741.528đ, lãi quá hạn là: 73.891.337đ và tiếp tục trả lãi, lãi quá hạn phát sinh trên số tiền gốc kể từ ngày 27/7/2019 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ theo mức lãi suất quy định trong hợp đồng tín dụng số: 018CN116.HĐTD.16 ký kết ngày 30/3/2016. Trường hợp anh Th, chị Y không trả hết nợ thì Ngân hàng VIB có quyền yêu cầu và cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền xử lý tài sản bảo đảm là thửa đất số 215 diện tích 708m2, tờ bản đồ số 21 và tài sản gắn liền trên đất tại thôn D, xã L, huyện L, tỉnh V. Nếu sau khi xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ để thanh toán toàn bộ khoản nợ của anh Th, chị Y với Ngân hàng thì anh Th, chị Y phải tiếp tục trả hết các khoản nợ cho Ngân hàng VIB.

Bị đơn anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong bản tự khai ngày 20/6/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án vợ chồng anh trình bày: Anh Th thừa nhận vợ chồng anh có ký kết hợp đồng tín dụng số: 018CN116.HĐTD.16 ngày 30/3/2019 để vay Ngân hàng VIB chi nhánh Vĩnh Phúc tổng số tiền là 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng chẵn), thời hạn vay là 120 tháng, mục đích vay: sửa chữa nhà để ở, Lãi suất vay: Lãi suất cố định 8,49%/năm trong 06 tháng đầu. Phương thức trả nợ: Trả nợ gốc hàng tháng vào ngày 26 với số tiền 2.500.000đ/tháng, ngày trả nợ gốc đầu tiên là 26/4/2016. Trả nợ lãi hàng tháng vào ngày 26 hàng tháng tính theo dư nợ thực tế, ngày trả lãi đầu tiên 26/4/2016. Hiện nay, vợ chồng anh còn nợ Ngân hàng VIB số tiền gốc là: 252.191.255đ (Hai trăm năm mươi hai triệu một trăm chín mốt nghìn hai trăm năm mươi lăm đồng). Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh chị trả nợ, vợ chồng anh chị đồng ý trả, nhưng do gia đình đang gặp khó khăn về tài chính nên vợ chồng anh chị xin trả dần như sau: 20/7/2019 trả 10.000.000đ và trả trong 04 tháng đến ngày 20/10/2019 vợ chồng anh chị xin tất toán toàn bộ khoản vay. Tuy nhiên, trong biên bản hòa giải ngày 20/6/2019 anh Th, chị Y không đồng ý chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đã tuân theo đúng quy định về thụ lý vụ án, xác định tư cách tố tụng của các đương sự, xác định quan hệ tranh chấp, tiến hành xác minh thu thập chứng cứ đúng theo trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án: Do anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng, do đó cần chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của Ngân hàng VIB buộc vợ chồng anh Th, chị Y phải trả Ngân hàng VIB tổng số tiền gốc và lãi tính đến ngày 26/7/2019 là: 359.824.120đ (Ba trăm năm mươi chín triệu tám trăm hai tư nghìn một trăm hai mươi đồng), trong đó nợ tiền gốc là: 252.191.255đ, lãi trong hạn là: 33.741.528đ, lãi quá hạn là: 73.891.337đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong đơn khởi kiện đề ngày 31/01/2019 của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam yêu cầu anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y trả lại Ngân hàng toàn bộ số tiền còn nợ lại theo hợp đồng tín dụng đã ký. Tòa án nhân dân huyện L đã thụ lý xác định quan hệ pháp luật “tranh chấp hợp đồng tín dụng” và giải quyết theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào các Điều 199, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn xét xử vắng mặt anh Th, chị Y.

Xét về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng tín dụng đều đúng quy định của pháp luật và đủ năng lực hành vi dân sự. Việc ký kết hợp đồng giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện và tuân thủ đúng pháp luật về hình thức và nội dung.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hợp đồng tín dụng: Theo nội dung hợp đồng tín dụng số: 018CN116.HĐTD.16 ngày 30/3/2016 được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam và vợ chồng anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y, Ngân hàng cho vợ chồng anh Th, chị Y vay số tiền 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng), số tiền này Ngân hàng đã thực hiện đúng nghĩa vụ của bên cho vay và giải ngân theo đúng thỏa thuận ghi trong hợp đồng tín dụng. Kể từ khi vay vốn cho đến nay Ngân hàng xác định vợ chồng anh Th, chị Y đã trả cho Ngân hàng tính đến ngày xét xử sơ thẩm 26/7/2019 là: 91.414.207đ (Chín mươi mốt triệu bốn trăm mười bốn nghìn hai trăm linh bảy đồng), trong đó: nợ gốc là: 47.808.745đ, lãi trong hạn là: 43.605.462đ và còn nợ Ngân hàng VIB tổng số tiền là: 359.824.120đ (Ba trăm năm mươi chín triệu tám trăm hai tư nghìn một trăm hai mươi đồng), trong đó nợ tiền gốc là: 252.191.255đ, lãi trong hạn là: 33.741.528đ, lãi quá hạn là: 73.891.337đ.

Phía anh Th, chị Y đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng, anh Th, chị Y đã không trả số tiền gốc: 2.500.000đ và lãi trên toàn bộ nợ gốc vào ngày 26 hàng tháng như đã cam kết, cụ thể từ ngày 29/6/2016 đến ngày 22/01/2018, anh Th, chị Y đã nhiều lần vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Ngân hàng VIB đã thông báo nhiều lần nhưng anh chị vẫn không trả đúng hạn, đến ngày 11/01/2018 Ngân hàng VIB đã có thông báo về nợ quá hạn, cảnh báo xử lý tài sản thế chấp đến anh Th, chị Y, nhưng anh Th, chị Y vẫn không trả và đến ngày 30/01/2019 Ngân hàng VIB có đơn khởi kiện ra tòa. Như vậy, việc Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y phải trả các khoản tiền gốc và lãi còn nợ tính đến hết ngày 26/7/2019 theo hợp đồng tín dụng là có căn cứ. Cần buộc vợ chồng anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y trả nợ cho Ngân hàng VIB tổng số tiền là: 359.824.120đ (Ba trăm năm mươi chín triệu tám trăm hai tư nghìn một trăm hai mươi đồng), trong đó nợ tiền gốc là: 252.191.255đ, lãi trong hạn là: 33.741.528đ, lãi quá hạn là: 73.891.337đ.

[2.2] Về hợp đồng thế chấp:

Để đảm bảo cho khoản vay đối với Ngân hàng VIB, phía bị đơn là anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y thừa nhận đã ký kết hợp đồng thế chấp tài sản số: 116.16.HDDTC.BĐ ngày 28/3/2016, thế chấp 708m2 đất thuộc thửa số 215, tờ bản đồ số 21 và tài sản gắn liền trên đất tại thôn D, xã L, huyện L, tỉnh V, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 062496, số vào sổ cấp GCN: CH 00214 do Ủy ban nhân dân huyện Lập Thạch cấp ngày 15/5/2013 cho ông Nguyễn Văn Th (diện tích hiện trạng là: 623.2m2). Tổng trị giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất là: 611.000.000 (Sáu trăm mười một triệu đồng). Xét thấy, Hợp đồng thế chấp trên đảm bảo có hiệu lực của hợp đồng, do đó phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định tài sản thế chấp đảm bảo cho khoản vay của anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng là tài sản hợp pháp của vợ chồng anh Th, chị Y. Cả hai vợ chồng đều ký kết vào hợp đồng thế chấp và đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Mục đích và nội dung của hợp đồng thế chấp hoàn toàn tự nguyện. Hợp đồng thế chấp đều được công chứng tại Văn phòng công chứng Vĩnh Phú và đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh L theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, trường hợp anh Th, chị Y không trả nợ cho Ngân hàng VIB thì Ngân hàng VIB có quyền yêu cầu và cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền xử lý tài sản bảo đảm trên để thu hồi nợ. Nếu sau khi xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ để thanh toán toàn bộ khoản nợ thì anh Th, chị Y phải tiếp tục thực hiện việc thanh toán khoản còn thiếu cho đến khi thanh toán đủ. Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bảo đảm vượt quá phần nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng VIB phải thanh toán trả lại anh Th, chị Y phần vượt quá nghĩa vụ trả nợ.

[3] Về án phí: Anh Th, chị Y phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, Ngân hàng VIB tự nguyện không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Do vậy, nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 471, 473, 474, 476 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 91, 95, 98 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 26 Luật thi hành án dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) đối với vợ chồng anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y.

Buộc anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y phải có nghĩa vụ trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam tổng số tiền tính đến ngày 26/7/2019 là: 359.824.120đ (Ba trăm năm mươi chín triệu tám trăm hai tư nghìn một trăm hai mươi đồng), trong đó nợ tiền gốc là: 252.191.255đ, lãi trong hạn là: 33.741.528đ, lãi quá hạn là: 73.891.337đ.

Kể từ ngày 27/7/2019, anh Th, chị Y tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số: 018CN116.HĐTD.16 ngày 30/3/2016 được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam và vợ chồng anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y đối với khoản nợ gốc chưa thanh toán cho đến khi thanh toán xong. Trường hợp anh Th, chị Y không trả được nợ hoặc trả không đầy đủ cho Ngân hàng VIB thì Ngân hàng có quyền yêu cầu và cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm là thửa số 215, tờ bản đồ số 21 diện tích 708 m2 (diện tích hiện trạng là 623.2m2) và tài sản gắn liền trên đất tại thôn D, xã L, huyện L, tỉnh V, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 062496, số vào sổ cấp GCN: CH 00214 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 15/5/2013 cho ông Nguyễn Văn Th để thu hồi nợ. Nếu sau khi xử lý tài sản bảo đảm vẫn không đủ để thanh toán toàn bộ khoản nợ thì anh Th, chị Y phải tiếp tục thực hiện việc thanh toán khoản còn thiếu cho đến khi thanh toán đủ. Trường hợp số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bảo đảm vượt quá phần nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng VIB phải thanh toán trả lại anh Th, chị Y phần vượt quá nghĩa vụ trả nợ.

Về án phí: Buộc anh Nguyễn Văn Th và chị Bùi Thị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 17.991.206đ (Mười bảy triệu chín trăm chín mốt nghìn hai trăm linh sáu đồng).

Trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam số tiền: 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số: AA/2017/0000079 ngày 02/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện L.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày giao nhận bản án hoặc niêm yết công khai tại UBND nơi cư trú của người vắng mặt để yêu cầu xét xử phúc thẩm./.

Theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/DS-ST ngày 26/07/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:05/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về