Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 12/05/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUAN HÓA, TỈNH THANH HÓA

 BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 12 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 01/2021/TLST-HNGĐ ngày 06/01/2021 về tranh chấp “Hôn nhân và Gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15/4/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị K, sinh năm 1983 Trú tại: Bản Thành Yên, xã Thành Sơn, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt có lý do.

Bị đơn: Anh Lƣơng Văn L, sinh năm 1982 Trú tại: Bản Chiềng, xã Trung Sơn, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/01/2021; Bản tự khai ngày 28/01/2021;

Biên bản hòa giải và quá trình giải quyết vụ án, chị Phạm Thị K trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Lương Văn L đã tự do tìm hiểu, yêu đương, không ai ép buộc ai, không bị ai ép buộc, hai người tự nguyện đến với nhau và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới phong tục tập quán vào năm 1999, đăng ký kết hôn vào tại UBND xã Thành Sơn, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày 11/01/1999. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, tuy nhiên đến đầu năm 2004 thì vợ chồng thường phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, quan điểm sống khác nhau, dẫn đến không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân. Tuy, đã được gia đình hai bên, chính quyền địa phương đã có nhiều lần tổ chức hòa giải, nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được. Chị và anh Lương Văn L đã quyết định sống ly thân từ năm 2004, chị đã chuyển hộ khẩu về nhà bố mẹ đẻ tại xã Thành Sơn, huyện Quan Hóa để sinh sống và hiện tại chị không có thai nghén. Nay, chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân là xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, cùng nhau nuôi dạy con cái đã không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Nên, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn, để chị yên tâm lo toan cuộc sống.

Đối với giấy Đăng ký kết hôn thì chị cho rằng, khi đăng ký kết thì cán bộ tư pháp đăng ký cho chị và anh Lạch thì chị cũng không hiểu biết, do hạn chế về pháp luật, không có giấy khai sinh, không nhớ ngày tháng năm sinh, không có chứng minh nhân dân, nên Cán bộ tư pháp hướng dẫn điều chỉnh năm sinh và ghi vào giấy Đăng ký kết hôn cho hai vợ chồng sinh năm 1979; Năm 2009 chị mới đi làm chứng minh nhân dân và khai năm sinh là 1983, nay nên chị không có ý kiến gì.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, chị và anh Lương Văn L có 02 con chung, tên các cháu là: Lương Thị T, sinh ngày 02/02/1999 và cháu Lương Văn K, sinh ngày 19/02/2001, hiện các cháu đã trưởng thành, nên các cháu muốn ở với ai thì tùy các cháu, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết; Đối với việc mà khi sinh cháu Lương Thị T khi chị mới tròn 16 tuổi, bởi vì do phong tục tập quán của người dân tộc thiểu số, lại sống ở vùng đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế, chị cũng không hiểu biết về pháp luật, nay chị được phổ biến về pháp luật một phần, chị nhận thấy và không yêu cầu cơ quan pháp luật giải quyết;

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu.

Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị tự nguyện chịu án phí theo quy định.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 09/3/2021; Biên bản hòa giải và quá trình giải quyết vụ án, anh Lương Văn L trình bày:

Về Hôn nhân: Anh đã được nhận và nghe công khai đơn khoải kiện và các tài liệu do Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án, anh đồng ý với nội dung mà nguyên đơn đã trình bày. Anh và chị chung sống trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc lừa dối. Thời gian đầu thì hạnh phúc, nhưng sau dần thì tình cảm vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên đồng ý với ý kiến của chị Phạm Thị K về hôn nhân, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn. Đối với việc Đăng ký kết hôn khi chưa đủ tuổi thì đúng như nguyên đơn Phạm Thị K đã tình bày.

Về con chung: Hai vợ chồng có 02 con chung như nguyên đã tình bày, nay các cháu đã trưởng thành, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí: Giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ, thì việc chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L có đăng ký kết hôn vào năm 1999, anh chị đều sinh năm 1979 hiện trên sổ đăng ký kết hôn của UBND xã Thành Sơn vẫn còn lưu giữ.

Tại Giấy xác nhận ngày 05/3/2021 của UBND xã Thành Sơn, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, thì: Theo hồ sơ lưu trữ về đăng ký kết hôn thì Phạm Thị K sinh năm 1979; Giấy khai sinh lại và Chứng minh nhân dân của Phạm Thị K sinh năm 1983 là do chị K mới làm lại năm 2009, nhưng đây đều là một người. Việc đăng ký Kết hôn cho chị Phạm Thị K khi chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn thì như chị Khuyên đã trình bày tại Tòa án.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Qua xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa, xét thấy: Vợ chồng chị K và anh L chung sống với nhau từ năm 1999, có kết hôn nhưng không đúng theo quy định của pháp luật, bởi vì đối chiếu với Sổ hộ khẩu và Chứng minh tư nhân dân được cấp năm 2009 thì thời điểm đăng ký kết hôn của anh chị không hợp pháp do chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn; Đến đầu năm 2004 thì phát sinh mâu thuẫn, anh L nghiện chất ma túy, đã phải đi cai nghiện 18 tháng và từ đó vợ chồng đã sống ly thân; quá trình chung sống thì anh chị đã hạnh phúc, có con chung, sau đó có mâu thuẫn, do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, nên không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân, anh chị đã sống ly thân; hiện tại anh chị thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên cả hai anh chị đều có nguyện vọng được ly hôn; Qua nghiên cứu hồ sơ và trình bày của các đương sự thì việc anh chị đã chấp hành đăng ký kết hôn nhưng do nhận thức về pháp luật còn hạn chế, anh chị không nhớ ngày tháng năm sinh, đồng thời cán bộ Tư pháp thời gian này chưa kiểm tra, yêu cầu xuất tình giấy tờ về nhân là chưa đúng theo quy định của pháp luật. Đối với giấy đăng ký kết hôn của UBND xã Thành Sơn cấp cho chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L không còn giá trị pháp lý, vì anh chị không đủ điều kiện kết hôn theo Điều 9 Luật hôn nhân gia đình năm 2000. Nay, anh chị đều có nguyện vọng được ly hôn. Nên, đề nghị Hội đồng xét xử hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L, hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ vợ chồng.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L có 02 con chung, tên các cháu là Lương Thị T, sinh ngày 02/02/1999 và cháu Lương Văn K, sinh ngày 19/02/2001, hiện các cháu đều đã trưởng thành. Chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên đề HĐXX chấp nhận đề nghị này của các đương sự; Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét.

Từ những phân tích trên:

Khoản 4 Điều 147, điểm b, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 278 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 51, Điều 55, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Khoản 1 Điều 24, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.

Đề nghị Hội đồng xét xử, xử:

Về Hôn nhân: Hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L, hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ vợ chồng.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Không xét.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về án phí: Nguyên đơn Phạm Thị K nhận nộp 300.000đ án phí HNGĐ sơ thẩm.

Kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định. Đề nghị khác: Không

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Căn cứ vào các điều 28, điều 35, điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự và điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình thì Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa thuộc thẩm quyền giải quyết. Bởi vì, anh Lương Văn L đang có hộ khẩu thường trú tại: Bản Chiềng, xã Trung Sơn, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa hôn nay, chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, HĐXX quyết định xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp “Hôn nhân và Gia đình”. Căn cứ điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự, thì chị Phạm Thị K là nguyên đơn; anh Lương Văn L là bị đơn.

[3] Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Các đương sự luôn chấp hành theo sự triệu tập của Tòa án và thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của mình cũng như các quy định khác của pháp luật quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án; trình bày của nguyên đơn tại đơn khởi kiện, bản khai của các đương sự, biên bản xác định mâu thuẫn, biên bản xác minh khác, thì: Chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L chung sống với nhau từ năm 1999 trên nguyên tắc tự nguyện, không ai ép buộc ai, không bị ai ép buộc.

Ngày 11/01/1999 chị K, anh L đến UBND xã Thành Sơn, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa để đăng ký kết hôn, lúc này anh chị không có Giấy khai sinh, không có hộ khẩu, không có chứng minh nhân dân, nên được cán bộ Tư pháp xã Thành Sơn hướng dẫn cho điều chỉnh ngày tháng năm sinh đối với chị Phạm Thị K là 12/02/1979, anh Lương Văn L là ngày 16/8/1979. Năm 2008 chị K đã được cấp Chứng minh nhân dân với ngày sinh là 02/02/1983, anh Lương Văn L sinh ngày 06/8/1982, việc này đã được UBND xã Thành Sơn xác nhận chị Phạm Thị K sinh ngày 12/02/1979 và ngày 02/02/1983 là một người, anh Lương Văn L sinh ngày 16/8/1979 và ngày 06/8/1983 đều là một người. Như vậy, đối chiếu ngày sinh trên Chứng minh nhân dân và Giấy đăng ký kết hôn số 15 ngày 11/01/1999 thì tại thời điểm kết hôn, hai bên kết hôn không đủ điều kiện kết hôn, nhưng sau đó chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L có đủ điều kiện kết hôn theo quy định, vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian dài, hai bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian đã qua họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Sau đó mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung. Nguyên nhân anh chị mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài và anh chị đã sống ly thân từ đó đến nay, hiện tại mỗi người một nơi, tình cảm vợ chồng không còn. Việc này đã được chính quyền địa phương xác nhận tình trạng hôn nhân và nguyên nhân mâu thuẫn. Nay, chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L đều yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. HĐXX nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L không thể hàn gắn và anh anh chị đều có nguyện vọng muốn được ly hôn. Vì vậy, căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điểm d1 Điều 2 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao; Điểm c khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân Tối cao – Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và Bộ Tư pháp. HĐXX cho chị Phạm Thị K ly hôn với anh Lương Văn L.

[5] Về nuôi con chung: Chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L có 02 con chung tên các cháu là Lương Thị T, sinh ngày 02/02/1999 và cháu Lương Văn K, sinh ngày 19/02/2001, hiện các cháu đều đã trưởng thành. Hai anh chị đều không yêu cầu tòa án giải quyết. Nên HĐXX không xem xét.

[6] Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu, HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Phạm Thị K phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về kháng cáo, kháng nghị: Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo luật định; Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Nhận định khác:

Đối với Giấy chứng nhận kết hôn số 15 ngày 11/01/1999 không có giá trị pháp lý do chị Phạm Thị K và anh Lương Văn L đủ điều kiện kết hôn; Đề nghị UBND xã Thành Sơn, huyện Quan Hóa có biện pháp xử lý trách nhiệm đối với cá nhân liên quan trong việc cấp Giấy chứng nhận kết.

Anh Lương Văn L và chị Phạm Thị K công nhận cháu Lương Thị T, sinh ngày 02/02/1999 là con chung. Như vậy, khi sinh cháu T thì anh L mới 16 tuổi 05 tháng 26 ngày, chị K tròn 16 tuổi, anh L đã có sự giao cấu với người chưa đủ 16 tuổi. Quá trình giải quyết vụ án thì chị K không yêu cầu giải quyết trách nhiệm hình sự, đồng thời xét về tuổi chịu trách nhiệm hình sự của anh Lạch thì chưa thành niên và một phần vì phong tục tập quán lạc hậu của người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, nhận thức pháp luật hạn chế, nên không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 68, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273, Điều 278 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Điều 147, Điều 148, Điều 278, Điều 282 và Điều 372 Bộ luật Dân sự;

Điều 8, Điều 9, Điều 11, Điều 12, khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Luật Hôn nhân và Gia đình;

Điểm d1 Điều 2 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao;

Điểm c khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân Tối cao – Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và Bộ Tư pháp;

Khoản 1 Điều 24, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Khuyên.

1.1. Về Hôn nhân: Cho Phạm Thị K ly hôn với anh Lương Văn L.

1.2. Về nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xem xét.

2. Về án phí: Chị Phạm Thị K phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí HNGĐ sơ thẩm, số tiền này được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị Phạm Thị K đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2019/0013203 ngày 05/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quan Hóa.

3. Quyền kháng cáo, kháng nghị: Án xử công khai, vắng mặt Nguyên đơn và bị đơn. Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo luật định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 12/05/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quan Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về