Bản án 04/2018/HSST ngày 30/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN  QUẬN Ô MÔN, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 04/2018/HSST NGÀY 30/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận M xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 01/2018/HSST ngày 11 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thanh L; sinh ngày 09/8/1998.

Nơi đăng ký thường trú: khu vực B, Phường P, quận M, thành phố Cần Thơ. Quốc tịch: Việt Nam;              

Dân tộc: Kinh;             

Tôn giáo: không

Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: làm thuê

Họ và tên cha: Nguyễn Thanh G, sinh năm 1973 (sống). Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 1976 (sống).

Bị cáo có một người chị sinh năm 1993 và một người em sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: không

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 09/11/2017, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an quận M, thành phố Cần Thơ.

2. Trần Phú C; sinh ngày: 25/4/2000.

Nơi đăng ký thường trú: khu vực T, phường P, quận M, thành phố Cần Thơ. Quốc tịch: Việt Nam;              

Dân tộc: Kinh;             Tôn giáo: không

Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: làm thuê

Họ và tên cha: Trần Thanh P, sinh năm 1977 (sống). Họ và tên mẹ: Nguyễn Kim Đ, sinh năm 1975 (sống). Bị cáo có một người người em sinh năm 2009.

Tiền án, tiền sự: không

Bị cáo tại ngoại.

3. Trương Đình L; sinh ngày: 06/12/2000.

Nơi đăng ký thường trú: ấp T, xã P, huyện G, tỉnh K.

Chỗ ở: khu vực B, Phường P, quận M, thành phố Cần Thơ.

Quốc tịch: Việt Nam;              Dân tộc: Kinh;             Tôn giáo: không

Trình độ học vấn: 4/12. Nghề nghiệp: làm thuê

Họ và tên cha: Trương Đình X, sinh năm 1972 (sống).

Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1971 (sống).

Bị cáo có hai người em, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2009.

Tiền án, tiền sự: không

Bị cáo tại ngoại.

(Các bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Trần Phú C – Bà Nguyễn Kim Đ, sinh năm 1975 là mẹ của bị cáo (có mặt).

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Trương Đình L – Ông Trương Đình X, sinh năm 1972 là cha của bị cáo (có mặt).

- Người bào chữa của bị cáo:

+ Ông Lê Văn H, sinh năm 1982 – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà Nước thành phố Cần Thơ bào chữa cho bị cáo Trần Phú C.

+ Ông Nguyễn Hoàng D, sinh năm 1984 – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà Nước thành phố Cần Thơ bào chữa cho bị cáo Trương Đình L.

- Bị hại: Công ty TNHH sản xuất thƣơng mại dịch vụ B.

Địa chỉ: 69/8 khu vực Thới Đông, phường P, quận M, thành phố Cần Thơ. Đại diện hợp pháp của bị hại ông Lê Tùng H, sinh năm 1977.

Địa chỉ: khu vực Bình H, phường P, quận M, TP. Cần Thơ.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Nguyễn Thanh T, sinh ngày 22/01/2002.

Địa chỉ: khu vực B, Phường P, quận M, TP. Cần Thơ.

2/  Lê Duy Hằng, sinh năm 1978.

Địa chỉ: khu vực 2, phường T, quận B, TP. Cần Thơ.

3/ Nguyễn Thanh S, sinh năm 1979.

Địa chỉ: khu vực B, Phường P, quận M, TP. Cần Thơ.

4/ Nguyễn Kim Đ, sinh năm 1975.

Địa chỉ: khu vực T, phường P, quận M, TP. Cần Thơ.

5/ Trương Đình X, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Kv. P, phường P, quận M, Tp. Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 16/9/2017 Nguyễn Thanh Trủ Nguyễn Thanh L, Trần Phú C đến Công ty TNHH sản xuất thương mại dịch vụ B (Công ty Bảo Nguyên) tại  Khu công nghiệp Trà Nóc 2, thuộc khu vực T, phường P, quận M, thành phố Cần Thơ  để trộm cắp tài sản. Trọng điều khiển xe môtô biển số 65T1 – 8819 chở theo Nguyễn Thanh L mang theo xe kéo, kềm, cờ lê và chìa khóa đến phía trước Công ty Bảo Nguyên thì Cường điều khiển xe môtô biển số 68S8 – 9510 chở Luân đến, cả bốn đối người đi vào bên trong công ty sử dụng các dụng cụ mang theo tháo bồn nghiền thức ăn để xuống nền xi măng, đang định để lên xe kéo đi tiêu thụ thì bị lực lượng Công an phường P phát hiện mời về trụ sở Công an phường để làm rõ xử lý.

Qua điều tra xác định được trước đó các đối tượng còn thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản tại Công ty Bảo Nguyên, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Cách ngày 16/9/2017 khoảng một tuần, Trọng điều khiển xe biển số 65T1 – 8819 chở Long, Cường điều khiển xe biển số 65E1 – 132.67 chở Phát (không rõ tên họ, địa chỉ cụ thể) đến Công ty Bảo Nguyên lấy trộm một máy quay ly tâm bằng kim loại. Trọng và Cường mang bán tại vựa phế liệu do anh Lê Duy Hằng làm chủ với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Số tiền này cả nhóm sử dụng để tiêu xài chung,

Vụ thứ hai: Sau vụ thứ nhất một ngày Trọng điều khiển xe biển số 65T1 – 8819 chở Long , Luân điều khiển xe môtô biển số 68S8 – 9510 chở Cường đến Công ty Bảo Nguyên lấy trộm một bồn đựng chả cá bằng kim loại. Trọng và Cường mang đến bán cho Lê Duy Hằng được 2.300.000 đồng, Trọng chia cho Long và Luân mỗi người 300.000 đồng, Trọng và Cường mỗi người 700.000 đồng còn lại 300.000 đồng Cường giữ để cả nhóm cùng tiêu xài hết.

Vụ thứ ba: Sau vụ thứ hai hai ngày Trọng điều khiển xe biển số 65T1 – 8819 chở Long , Luân điều khiển xe môtô biển số 68S8 – 9510 chở Cường đến Công ty Bảo Nguyên lấy trộm 01 vít tải chả cá bằng kim loại. Sau đó Trọng và Cường mang đến bán cho Lê Duy Hằng với số tiền 4.500.000 đồng, Trọng chia cho Long và Luân mỗi người 400.000 đồng, Trọng và Cường mỗi người 1.500.000 đồng, còn lại 700.000 đồng Trọng giữ lại để cả nhóm tiêu xài chung.

Vật chứng thu giữ: 01 bồn nghiền thức ăn bằng kim loại, 01 chìa khóa số 19 (một đầu tròn, một đầu vuông), 01 cây cờ lê loại 300mm, 01 cây kềm đa năng, 01 xe kéo, 01 xe mô tô hiệu MAJESTY, màu xanh biển số 68S8 – 9510, 01 xe hiệu YAMAHA SIRIUS màu đen – bạc biển số 65T1 – 8819, 01 vít tải bằng inox màu trắng, 01 bồn inox màu trắng, 01 cục giảm tốc đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra xác định Cường là người đầu tiên phát hiện Công ty Bảo Nguyên không có người trông coi nên rủ các đối tượng còn lại đến để trộm tài sản bán lấy tiền tiêu xài, tuy nhiên trong lần này các đối tượng chỉ đến xem và bỏ về không thực hiện hành vi trộm cắp. Trong những lần trộm cắp tài sản thì Trọng là ngưởi rủ và chuẩn bị các công cụ gồm xe kéo, kềm, chìa khóa, cờ lê để các đối tượng còn lại cùng thực hiện hành vi trộm cắp.

Tại kết luận định giá tài sản số 44/KLĐG ngày 10/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản quận M xác định: 01 bồn trộn chả cá cân nặng 325kg có giá là 6.500.000 đồng, 01 bộ phận của máy quay ly tâm cân nặng 145kg có giá 725.000 đồng, 01 bồn đựng chả cá cân nặng 85kg có giá 1.700.000 đồng, giá một vít tải chả cá cân nặng 175kg có giá 3.500.000 đồng.

Đối với Nguyễn Thanh T, khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản chưa đủ 16 tuổi nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận M đã xử lý hành chính theo quy định. Lê Duy Hằng khi mua tài sản do Trọng và Cường bán không biết số tài sản này do trộm cắp mà có nên không đủ cơ sở để xử lý, anh Hằng không yêu cầu các đối tượng phải trả lại số tiền 7.100.000 đồng mà anh mua số tài sản này và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với các bị can.

Đối với người tên Phát do không rõ tên, họ và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận M đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là anh Lê Tùng H là đại diện hợp pháp Công ty Bảo Nguyên số tài sản gồm: 01 bồn trộn chả cá bằng kim loại, 01 bộ phận của máy quay ly tâm, 01 bồn đựng chả cá bằng kim loại, 01 vít tải chả cá bằng kim loại, anh Huy đã nhận lại đủ số tài sản nêu trên anh không yêu cầu gì thêm, đồng thời yêu cầu giảm nhẹ hình phạt đối với các bị can.

Đối với xe mô tô biển số 65T1  – 8819 số máy 5C64181446, số khung C6409Y181439, 01 chìa khóa số 19 (một đầu tròn, một đầu vuông), 01 cây cờ lê loại 300mm, 01 cây kềm đa năng, 01 xe kéo là tài sản của Nguyễn Thanh S, anh Sang không biết con của mình là Nguyễn Thanh Tsử dụng làm công cụ, phương tiện để trộm cắp tài sản của người khác . Xe môtô biển số 68S8 – 9510 số máy 127163, số khung 127163 là của anh Trương Đình X, anh Xuyên không biết việc Luân sử dụng xe để đi trộm cắp tài sản. Xe mô tô biển số 65E1 – 132.67 là của bà Nguyễn Kim Đ, việc Cường sử dụng xe để đi trộm cắp tài sản bà Đầm không biết.

Quá trình điều tra Trương Đình L đã tự nguyện nộp lại số tiền 700.000 đồng (bảy trăm ngàn đồng) thu lợi bất chính.

Tại Bản cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 10 tháng 01 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân quận M đã truy tố Nguyễn Thanh L, Trần Phú C, Trương Đình L có hành vi phạm tội và lý lịch như trên ra trước Tòa án nhân dân quận M để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận M trình bày lời luận tội vẫn giữ quan điểm truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng.

Đồng thời phân tích những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48. Xử phạt bị cáo Long từ 06 đến 09 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 73 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cường từ 12 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 73 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Luân từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

Về xử lý vật chứng: đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Ông Hận Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Cường trình bày:

Thống nhất về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân quận M truy tố đối với bị cáo Cường. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự như kiểm sát viên đề nghị áp dụng. Đồng thời bị cáo là người vị thành niên nên trình độ nhận thức bị cáo còn hạn chế. Qua đó, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Cường cải tạo không giam giữ như Viên kiểm sát đề nghị là phù hợp.

Ông Dư trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Luân trình bày: Thống nhất về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân quận M truy tố đối với bị cáo Luân. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự như kiểm sát viên đề nghị áp dụng. Đồng thời bị cáo là người vị thành niên nên trình độ nhận thức bị cáo còn hạn chế. Qua đó, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Luân cải tạo không giam giữ như Viên kiểm sát đề nghị là phù hợp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Ông Nguyễn Thanh S và đại diện bị hại là ông Lê Tùng H vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, việc vắng mặt những người này không liên quan đến việc giải quyết vụ án. Nên căn cứ vào Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hội đồng xét xử đủ cơ sở xét xử vắng mặt những người này.

[2] Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về căn cứ buộc tội: Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và vật chứng thu giữ được.

Tại kết luận định giá tài sản số 44/KLĐG ngày 10/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản quận M xác định: 01 bồn trộn chả cá cân nặng 325kg có giá là 6.500.000 đồng, 01 bộ phận của máy quay ly tâm cân nặng 145kg có giá 725.000 đồng, 01 bồn đựng chả cá cân nặng 85kg có giá 1.700.000 đồng, giá một vít tải chả cá cân nặng 175kg có giá 3.500.000 đồng. Từ đó, có đủ cơ sở chứng minh Nguyễn Thanh L, Trần Phú C, Trương Đình L phạm tội “Trộm cắp tài sản”  theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

[4] Về tính chất hành vi phạm tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Long, Cường và Luân đều khai nhận đã tham gia 03 đến 04 lần trộm tài sản của Công ty Bảo Nguyên. Hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi chiếm đoạt trái pháp luật đối với tài sản của người khác đều phải bị xử lý nghiêm minh.Động cơ phạm tội của bị cáo là tham lam, mong muốn chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật để thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Đây là lỗi cố ý trong ý thức phạm tội.

Các bị cáo lợi dụng vào việc không có ai trông coi tài sản của Công ty Bảo Nguyên nên các bị cáo đã có hành vi lén lút lấy trộm thiết bị máy móc của Công ty nhiều lần.

Hành vi trên của các bị cáo làm ảnh hưởng an ninh trật tự an toàn trong xã hội. Do đó, Viện kiểm sát quận M truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật nêu trên là có căn cứ dúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Các bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của bản thân gây ra. Các bị cáo biết hành vi xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật của các bị cáo. Hành vi của các bị cáo gây nguy hại lớn cho xã hội, làm khổ cho gia đình người thân và tự đánh mất tương lai của mình. Để có tác dụng giáo dục răn đe các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, nên cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, giúp đỡ các bị cáo sữa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Tuy nhiên, đối với bị cáo Trần Phú C và Trương Đình L khi thực hiện hành vi phạm tội là người chưa thành niên, năng lực nhận thức của các bị cáo có phần bị hạn chế. Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết cách ly xã hội đối với hai bị cáo mà cần áp dụng biện pháp cải tạo không giam giữ giao về địa phương giám sát, giáo dục đối với bị cáo cũng đủ răng đe, giáo dục bị cáo.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra các bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải; nhân thân chưa tiền án tiền sự; Đối với bị cáo Cường và bị cáo Luân khi thực hiện hành vi phạm tội là người chưa thành niên nên phần nào chưa nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do mình gây ra. Do đó, đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho các bị cáo đề nghị xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự là phù hợp nên chấp nhận. Đối với các bị cáo đã tham gia trộm 02 vụ tài sản có giá trị trên 2.000.000 đồng, đây là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.

[6] Đối với người tên Phát mà các bị cáo đã khai cùng tham gia trộm cắp tài sản của Công ty Bảo Nguyên kiến nghị cơ quan điều tra công an quận M, thành phố Cần Thơ xác minh làm rõ người tên “Phát” để xử lý sau tránh bỏ lọt tội phạm.

Đối với Nguyễn Thanh T, khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản chưa đủ 16 tuổi nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận M đã xử lý hành chính là đúng quy định.

[7] Về xử lý vật chứng: Xét thấy đề nghị của kiểm sát viên có căn cứ nên cần chấp nhận theo đề nghị.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999;

 Tuyên  bố  : Nguyễn Thanh L, Trần Phú C, Trƣơng Đình Luận phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

 Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm h, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

 Xử phạt  Nguyễn Thanh L 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn phạt tù tính từ ngày 09/11/2017.

 Áp dụng

Khoản 1 Điều 138; Điểm h, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 68; 69; 73 Bộ luật hình sự.

 Xử  phạt  : Trần Phú C 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian chấp hành hình phạt kể từ ngày ký ban hành quyết định thi hành án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường P, quận M, thành phố Cần Thơ giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án.

 Áp  dụng  : Khoản 1 Điều 138; Điểm b, h, p khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 68; 69; 73 Bộ luật hình sự.

 Xử  phạt : Trương Đình L 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian chấp hành hình phạt kể từ ngày ký ban hành quyết định thi hành án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường P, quận M, thành phố Cần Thơ giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án.

 Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: Điều 41 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009;  Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận M đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là anh Lê Tùng H là đại diện hợp pháp Công ty Bảo Nguyên số tài sản gồm: 01 bồn trộn chả cá bằng kim loại, 01 bộ phận của máy quay ly tâm, 01 bồn đựng chả cá bằng kim loại, 01 vít tải chả cá bằng kim loại, anh Huy đã nhận lại đủ số tài sản nêu trên anh không yêu cầu gì thêm, đồng thời yêu cầu giảm nhẹ hình phạt đối với các bị can.

Trả lại cho anh Nguyễn Thanh S 01 xe mô tô biển số 65T1 – 8819 số máy 5C64181446, số khung C6409Y181439, 01 chìa khóa số 19 (một đầu tròn, một đầu vuông), 01 cây cờ lê loại 300mm, 01 cây kềm đa năng, 01 xe kéo loại 02 bánh, khung bằng kim loại.

Trả lại cho anh Trương Đình X 01 xe môtô biển số 68S8 – 9510 số máy 127163, số khung 127163.

Tịch thu sung công 700.000 đồng (bảy trăm ngàn đồng) Trương Đình L đã tự nguyện nộp từ việc thu lợi bất chính.

*  Về án phí hình sự sơ thẩm  :

Áp dụng: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Thanh L, Trần Phú C, Trương Đình L, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Toà án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HSST ngày 30/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về