Bản án 03/2020/HS-ST ngày 20/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 20/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Phan Vĩnh T, sinh ngày 03 tháng 11 năm 1980 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Đường H, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Tường T1 (đã chết) và bà Giang Thị T2; bị cáo có vợ là Vũ Thu H (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án số 28/2006/HSST ngày 24/01/2006, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 04 năm tù về tội Gây rối trật tự công cộng (đã được xóa án tích); bị bắt, tạm giữ ngày 04/10/2019, tạm giam ngày 09/10/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 04/10/2019 tại khu vực đường Lê Hồng Phong gần siêu thị Big C thuộc phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Hải Phòng phát hiện, bắt quả tang Phan Vĩnh T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi quần bên trái T đang mặc 01 hộp nhựa bên trong có 03 gói giấy màu trắng kích thước khoảng 0,5x1,5 cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng T khai nhận là ma túy heroine.

Kết luận giám định số 519/2019/PC09 ngày 08/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Mẫu chất bột thu giữ của Phan Vĩnh T có khối lượng 0.1799 gam, là loại heroine.

Quá trình điều tra Phan Vĩnh T khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 05 giờ ngày 04/10/2019, T đi bộ một mình đến khu vực đường tàu Cầu Quay mua của một người phụ nữ không quen biết 03 gói ma túy heroine với giá 100.000 đồng/gói, mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau đó, T đi về nhà, đến khoảng 08 giờ 40 phút cùng ngày, T cho 03 gói ma túy vừa mua vào một hộp nhựa cất trong túi quần bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 16H8-1919 đi đến khu vực siêu thị Big C Hải Phòng ngồi chơi uống nước thì bị Cơ quan công an kiểm tra, bắt quả tang, đưa T về trụ sở Công an phường Đằng Giang lập biên bản và niêm phong vật chứng gửi đi giám định.

Về vật chứng: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha biển kiểm soát 16H8-1919, hiện chưa xác minh được chủ sở hữu hợp pháp, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ, có căn cứ xử lý sau; 01 phong bì niêm phong số 519/2019/PC09, 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng, 01 ví bên trong có 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Phan Vĩnh T và số tiền 1.500.000 đồng chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Tại Bản Cáo trạng số 03/CT-VKSNQ ngày 03/01/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Phan Vĩnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Phan Vĩnh T khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Kim sát viên tại phiên toà, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Phan Vĩnh T với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định số 519/2019/PC09; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng, 01 ví bên trong có 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Phan Vĩnh T và số tiền 1.500.000 đồng. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Phan Vĩnh T đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,1799 gam Heroine. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự khác. Bị cáo nhân thân có một tiền án: Tại Bản án số 28/2006/HSST ngày 24/01/2006, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 04 năm tù về tội Gây rối trật tự công cộng, tuy đã được xóa án tích nhưng cần đánh giá bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm.

- Về tình tiết tăng nặng:

[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ:

[6] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; ngòa ra bị cáo có bố đẻ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3, có bác ruột là Liệt sỹ do bị cáo đang thờ cúng, là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không cần thiết bắt bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về việc xử lý vật chứng:

[8] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định số 519/2019/PC09; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại màu đen nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng, 01 ví bên trong có 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Phan Vĩnh T và số tiền 1.500.000 đồng do không liên quan đến vụ án nhưng cần tạm giữ lại số tiền 1.500.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

- Về án phí:

[9] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[10] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với người người phụ nữ bán ma túy cho T hiện chưa xác minh được căn cước lai lịch, cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phan Vĩnh T 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 04/10/2019.

- Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định số 519/2019/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng; trả lại cho bị cáo Phan Vĩnh T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng, 01 ví da màu đen bên trong có 01 chứng minh nhân dân mang tên Phan Vĩnh T (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/01/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng); trả lại cho bị cáo Phan Vĩnh T số tiền 1.500.000 đồng (theo biên lai thu tiền số 3255 ngày 03/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng) nhưng tạm giữ lại số tiền trên để đảm bảo thi hành án.

- Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Phan Vĩnh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Phan Vĩnh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HS-ST ngày 20/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về