Bản án 01/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 01/2021/HS-PT NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 127/2020/TLPT- HS ngày 09 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn An M do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 115/2020/HS-ST ngày 05/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

- Bị cáo kháng cáo: Họ và tên: Nguyễn An M, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1985; tại huyện K, tỉnh H; nơi cư trú: Tổ 1, khu 1, phường Q, thành phố B, tỉnh QN; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh;giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch; Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Tng Thị K; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị bắt quả tang ngày 12/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh QN, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 25 phút ngày 12-8-2020 tổ công tác Công an phường T, thành phố B đang làm nhiệm vụ tại tổ 3, khu 1, phường, thành phố B đã phát hiện bắt quả tang đối với Nguyễn An M về hành vi cất giấu trái phép chất nghi là ma túy. Quá trình kiểm tra phát hiện M đang cầm trên tay trái 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (2x2)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng niêm phong ký hiệu M1. Cơ quan điều tra tiếp tục tiến hành khám xét chỗ ở của Nguyễn An M tại tổ 1, khu 1, phường Q, thành phố B thu giữ tại dưới chân bàn trong bếp: 01 chai nước bằng nhựa màu trắng loại 0,5 lít nắp chai bằng nhựa màu trắng được đục 02 lỗ nhỏ, 01 lỗ gắn với ống nhựa màu tím dài khoảng 30 cm, 01 lỗ gắn với ống thủy tinh dài khoảng 10cm một đầu thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn bên trong có dính chất dạng vết màu đen niêm phong ký hiệu M2.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn An M khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 12-8-2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên M gọi điện thoại bằng số điện thoại 0376.143.333 của mình cho đối tượng tên N để hỏi mua ma túy “đá” tại nhà N thuộc tổ 3, khu 1, phường T, thành phố B với giá 400.000đ (Bốn trăm ngàn đồng). Năng đồng ý. Sau đó M điều khiển xe máy điện đến nhà N mua và cầm túi ma túy bằng tay trái rồi điều khiển xe đi về nhà. Khi đi được khoảng 100m thì gặp tổ công tác Công an phường T kiểm tra phát hiện và thu giữ số vật chứng như đã nêu trên.

Tại bản Kết luận giám định số 1121/KLGĐ ngày 17-8-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh QN kết luận: Mẫu vật M1, M2 gửi giám định là ma túy Methamphetamine, trong đó M1 có khối lượng 0,4 gam; M2 không xác định được khối lượng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 115/2020/HS-ST ngày 05/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh QN đã tuyên bố: Bị cáo Nguyễn An M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn An M 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam: 12/8/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Ngày 16/11/2020, bị cáo Nguyễn An M có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo M giữ nguyên nội dung kháng cáo và trình bày lý do là bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố là Công nhân nhà máy nhiệt điện Uông Bí, bị tai nạn lao động cụt mất một cánh tay, thương tật 65%, cần có người chăm sóc, bản thân bị cáo là lao động chính tro ng gia đình và em trai bị cáo biệt phái làm việc tại nhiệt điện Duyên Hải.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh: Những tình tiết giảm nhẹ của bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét và đánh giá, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không đưa ra được những tình tiết mới nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn An M, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn An M làm trong hạn pháp luật qui định nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về tội danh: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người chứng kiến, phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 25 phút ngày 12-8-2020, tại khu vực tổ 3, khu 1, phường T, thành phố B, tỉnh QN, Nguyễn An M bị bắt quả tang khi đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,4g (không phẩy bốn) gam ma túy Methamphetamine mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo Nguyễn An M đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Nguyễn An M và xử phạt bị cáo 15 (mười lăm) tháng tù là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ để giảm hình phạt đối với bị cáo. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên mức hình phạt tại bản án hình sự sơ thẩm số:

115/2020/HS-ST ngày 05/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã xử bị cáo Nguyễn An M 15 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật.

[5] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn An M, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Nguyễn An M 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam: 12/8/2020 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo Nguyễn An M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về