Bản án 01/2020/HS-ST ngày 03/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 03/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 178/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 191/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Giang Lê Minh Đ; Sinh ngày: 18/9/1984; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 7/3 đường TM, Phường B, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Giang Từ Đảng và bà: Lê Ngọc Dung; Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 17/10/2019. (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Kim H; Sinh năm: 1992; Thường trú: Xã ĐD, huyện AT, tỉnh Hưng Yên; Tạm trú: 50A đường PVK, Phường M, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 17/10/2019, Công an Quận 6 trên đường tuần tra phát hiện Giang Lê Minh Đ đang điều khiển xe gắn máy biển số 89B1-860.05 chạy đến trước nhà số 356T đường LQS, Phường F, Quận Fcó biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và đã thu giữ trong ngăn đựng đồ phía trước bên trái của xe 01 gói thuốc lá hiệu Jet, bên trong có 03 gói nylon chứa tinh thể không màu (Đ khai là ma túy đá), nên đã giao Đ cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Giang Lê Minh Đ khai: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 17/10/2019, Đ mượn xe gắn máy biển số 89B1-860.05 của bà Nguyễn Thị Kim H (bạn gái Đ) chạy đến khách sạn QH - địa chỉ 78 đường PĐH, Phường B, Quận F gặp một người thanh niên tên A (không rõ lai lịch) mua 03 gói ma túy đá giá 600.000 đồng để sử dụng và trên đường về đến trước nhà số 356T đường LQS thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Tại Kết luận giám định số: 1947/KLGĐ-H ngày 23 tháng 10 năm 2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: 01 gói niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Tấn (Điều tra viên), Phạm Công Chánh (người chứng kiến), Giang Lê Minh Đ và hình dấu Công an Phường 6, Quận 6. Bên trong có:

- Tinh thể không màu trong 01 gói nylon (bên ngoài quấn băng keo màu đen) cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2544g (không phẩy hai năm bốn bốn gam), loại Methamphetamine.

- Tinh thể không màu trong 01 gói nylon (bên ngoài quấn băng keo màu đen) cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2015g (không phẩy hai không một năm gam), loại Methamphetamine.

- Tinh thể không màu trong 01 gói nylon cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2619g (không phẩy hai sáu một chín gam), loại Methamphetamine.

Đối với người tên A, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 01/CT-VKS-Q6 ngày 09 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Giang Lê Minh Đ về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Giang Lê Minh Đ khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi mua 03 gói ma túy đá giá 600.000 đồng từ một người thanh niên tên Anh không rõ lai lịch tại khách sạn QH (địa chỉ 78 đường PĐH, Phường B, Quận F ) để dành sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang tại trước nhà số 356T đường LQS, Phường 6, Quận 6 vào lúc 18 giờ ngày 17/10/2019 như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Giang Lê Minh Đ như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Giang Lê Minh Đ từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động vỏ màu xanh, bên ngoài có ghi chữ Nokia, số Imei 1: 354877085642984, số Imei 2: 354877085642992.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói bên ngoài có ghi vụ số: 1947/2019 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Huỳnh Thanh Thảo, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn. Bên trong có 03 gói ma túy đã được niêm phong; 01 bao thuốc lá hiệu Jet và 01 sim điện thoại có số thuê bao 070384394.

Lời nói sau cùng, bị cáo Giang Lê Minh Đ nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Giang Lê Minh Đ tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận giám định; lời khai của của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Giang Lê Minh Đ đã cất giữ 0,7178 gam ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy khác (bị cáo khai mua số ma túy này để dành sử dụng) , là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Giang Lê Minh Đ không những đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý, trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Giang Lê Minh Đ là người đã trưởng thành, hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như H quả do hành vi của bị cáo gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Giang Lê Minh Đ là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu (chưa có tiền án - tiền sự), nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Giang Lê Minh Đ còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Việc xử lý vật chứng: Phương tiện dùng vào việc phạm tội là 01 chiếc điện thoại di động vỏ màu xanh, bên ngoài có ghi chữ Nokia, số Imei 1: 354877085642984, số Imei 2: 354877085642992, Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Riêng 01 gói bên ngoài có ghi vụ số: 1947/2019 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Huỳnh Thanh Thảo, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn. Bên trong có 03 gói ma túy đã được niêm phong; 01 bao thuốc lá hiệu Jet và 01 sim điện thoại có số thuê bao 070384394, là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 142/PNK ngày 26 tháng 11 năm 2019 của Công an Quận 6 - BL70) Đối với chiếc xe gắn máy biển số 89B1-860.05 thu giữ của bị cáo Giang Lê Minh Đ, Cơ quan điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị Kim H (bạn gái của bị cáo). Ngày 17/10/2019, bị cáo hỏi bà H mượn chiếc xe để đi công việc, nhưng sau đó lại sử dụng để đi mua ma túy, bà H không biết nên đã xử lý trả chiếc xe lại cho bà H (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 02/12/2019 của Công an Quận 6 - BL61), do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Đối với người tên Anh mà bị cáo Giang Lê Minh Đ khai bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Bị cáo Giang Lê Minh Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Giang Lê Minh Đ phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Giang Lê Minh Đ 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/10/2019.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động vỏ màu xanh, bên ngoài có ghi chữ Nokia, số Imei 1: 354877085642984, số Imei 2: 354877085642992.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói bên ngoài có ghi vụ số: 1947/2019 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Huỳnh Thanh Thảo, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn. Bên trong có 03 (ba) gói ma túy đã được niêm phong; 01 (một) bao thuốc lá hiệu Jet và 01 (một) sim điện thoại có số thuê bao 070384394.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Giang Lê Minh Đ phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Giang Lê Minh Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2020/HS-ST ngày 03/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về