Bản án 01/2019/DS-ST ngày 15/01/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH G L

BẢN ÁN 01/2019/DS-ST NGÀY 15/01/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G L xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 104/2018/TLST-DS, ngày 21 tháng 8 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự về vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2018/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 12 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Vũ Thị L, sinh năm: 1976 và ông Phạm Quang T, sinh năm: 1970

Cùng địa chỉ: Thôn T Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh G L. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Hoàng Văn C, sinh năm 1951 và bà Phạm Thị N, sinh năm:  1954.

Cùng địa chỉ: Thôn T Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh G L. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 17/8/2018, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Vũ Thị L và ông Phạm Quang T trình bày:

Vào ngày 07/02/2018 vợ chồng ông Hoàng Văn C và bà Phạm Thị N có mượn của bà Vũ Thị L và ông Phạm Quang T số tiền 400.000.000 đồng để đầu tư rẫy và hẹn bắt đầu trả từ tháng 6/2018 đến tháng 12/2018 mỗi tháng trả 60.000.000 đồng cho đến khi hết số tiền mượn trên và hai bên thỏa thuận lãi suất là 1,3%/tháng. Khi mượn tiền thì ông C, bà N có viết 01 giấy vay tiền để làm tin. Tuy nhiên khi đến hẹn trả nợ bắt đầu từ tháng 6/2018 thì ông C, bà N đã không thực hiện việc trả nợ như thỏa thuận.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn ông T, bà L yêu cầu bị đơn ông C, bà N trả ngay số tiền 400.000.000 đồng cho ông bà và ông bà không yêu cầu tính lãi suất.

Tại tại phiên toà hôm nay, bị đơn ông Hoàng Văn C và bà Phạm Thị N trình bày:

Ông C, bà N thừa nhận có vay tiền của vợ chồng ông T, bà L số tiền là 400.000.000 đồng như vợ chồng ông T, bà L trình bày. Ông C, bà N có viết cho ông T, bà L không 01 giấy vay tiền để làm tin và hẹn bắt đầu trả từ tháng 6/2018 đến tháng 12/2018 mỗi tháng trả 60.000.000 đồng cho đến khi hết số tiền mượn trên và hai bên thỏa thuận lãi suất là 1,3%/tháng. Tuy nhiên do làm ăn thua lỗ, kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn nên chưa trả nợ số tiền trên cho ông T, bà L được nên xin trả dần số nợ trên cho ông T, bà L mỗi năm trả 20.000.000 đồng cho đến khi hết số tiền nợ 400.000.000 đồng nêu trên, chứ không có khả năng trả một lần.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ các điều 26, 35,39 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 357, 463, 466, 468, 470 Bộ luật dân sự; Điều 27; Điều 37 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả lại số tiền là 400.000.000 đồng cho nguyên đơn. Bị đơn phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1 Về thủ tục tố tụng:

Bà Vũ Thị L và ông Phạm Quang T khởi kiện yêu cầu tòa án buộc bị đơn ông Hoàng Văn C và bà Phạm Thị N phải trả lại số tiền gốc đã vay là 400.000.000 đồng. Đây là tranh chấp hợp đồng dân sự được quy định tại  khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ.

2 Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay ông Hoàng Văn C và bà Phạm Thị N thừa nhận vào ngày 07/02/2018 có mượn của vợ chồng bà Vũ Thị L và ông Phạm Quang T số tiền là 400.000.000 đồng và thừa nhận “Giấy mượn tiền” ngày ngày 07/02/2018 là do ông bà ký xác nhận nợ. Vì thế việc ông C, bà N có nợ ông T, bà L số tiền 400.000.000 đồng là sự thật. Ông C, bà N cho rằng hiện tại rất khó khăn về kinh tế nên xin trả dần mỗi tháng trả 20.000.000 đồng cho đến khi hết số tiền nợ 400.000.000 đồng cho ông T, bà L. Trong quá trình hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay ông T, bà L không đồng ý với phương án trả nợ mà ông C, bà N nêu ra. Vì thế, yêu cầu của ông C, bà N không được chấp nhận. Xét, giao dịch vay tiền giữa ông T, bà L với ông C, bà N là một hợp đồng dân sự về việc vay tài sản có kỳ hạn được giao kết trên cơ sở tự nguyện giữa các bên và phù hợp với các quy định của pháp luật nên có hiệu lực pháp luật, nhưng khi thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận thì ông C, bà N là bên vi phạm, không trả nợ theo cam kết. Từ những nhận định trên, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền còn nợ 400.000.000 đồng là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

 [3] Về khoản lãi: Trong đơn khởi kiện ông Phạm Quang T và bà Vũ Thị L yêu cầu ông Hoàng Văn C và bà Phạm Thị N phải trả tiền lãi của số tiền vay. Tuy nhiên qua trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay ông T, bà L không yêu cầu tính lãi của số tiền nợ nêu trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [4] Về án ph : Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên buộc bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản 1 Điều 35;  điểm a khoản 1 Điều 39;Điều 147; khoản 2 Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mứcthu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng: Điều 463; Điều 465; Điều 466; Điều 470 Bộ luật dân sự; Điều 27;Điều 37 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Quang T và bà Vũ Thị L.

Buộc bị đơn ông Hoàng Văn C và bà Phạm Thị N có nghĩa vụ trả cho nguyênđơn ông Phạm Quang T và bà Vũ Thị L số tiền nợ gốc là 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị đơn ông Hoàng Văn C và bà Phạm Thị N có nghĩa vụ nộp số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Phạm Quang T và bà Vũ Thị L không phải chiụ án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho ông Phạm Quang T và bà Vũ Thị L số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0002735 ngày21/8/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh G L.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G L xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2019/DS-ST ngày 15/01/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:01/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đăk Pơ - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về