HIỆP ĐỊNH
GIỮA CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH
PHỦ VƯƠNG QUỐC THUỴ ĐIỂN VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ
ĐỐI VỚI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP (1994).
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Thụy Điển
Mong muốn ký kết một Hiệp định
về việc tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các
loại thuế đánh vào thu nhập.
Đã thỏa thuận dưới đây:
Điều 1: Phạm
vi áp dụng
Hiệp định này được áp dụng cho
các đối tượng là những đối tượng cư trú tại một hoặc cả hai Nước ký kết.
Điều 2: Các
loại thuế bao gồm trong Hiệp định
1/ Hiệp định này áp dụng đối với
các loại thuế do một Nước ký kết hoặc các cơ quan chính quyền cơ sở, hay chính
quyền địa phương của Nước đó, đánh vào thu nhập, bất kể hình thức áp dụng của
các loại thuế đó như thế nào.
2/ Tất cả các loại thuế thu trên
tổng thu nhập, hoặc những phần của thu nhập, bao gồm các khoản thuế đối với lợi
nhuận từ việc chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, thuế đánh trên tổng số
tiền lương hoặc tiền công do xí nghiệp trả cũng như các khoản thuế đánh vào trị
giá tài sản tăng thêm đều được coi là thuế đánh vào thu nhập.
3/ Những loại thuế hiện hành
được áp dụng trong Hiệp định này là:
a.Tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân;
(ii) thuế lợi tức; và
(iii) thuế chuyển lợi nhuận ra
nước ngoài;
(dưới đây được gọi là "thuế
Việt Nam");
b. Tại Thụy Điển:
(i) Thuế thu nhập quốc gia, bao
gồmcả thuế đối với người làm công trên biển và thuế khấu trừ thu trên tiền lãi
cổ phần;
(ii) Thuế thu nhập đối với đối
tượng không cư trú;
(iii) Thuế thu nhập đối với các
nghệ sỹ và vận động viên không phải là đối tượng cư trú; và
(iv) Thuế thu nhập địa phương;
(dưới đây được gọi là "thuế
Thụy Điển").
4/ Hiệp định này cũng sẽ được áp
dụng cho các loại thuế có tính chất tương tự hay về căn bản giống như các loại
thuế trên được ban hành sau ngày ký kết Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế
các loại thuế hiện hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của các Nước ký kết
sẽ thông báo cho nhau biết những thay đổi quan trọng trong luật thuế của từng
Nước.
Điều 3: Các
định nghĩa chung
a. Từ "Việt Nam"
để chỉ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; khi dùng theo nghĩa địa lý, bao
gồm toàn bộ lãnh thổ Quốc gia Việt Nam, kể cả lãnh hải Việt Nam, và mọi vùng ở
ngoài lãnh hải Việt Nam mà theo luật pháp Việt Nam và phù hợp với luật pháp
quốc tế, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò và khai thác tài
nguyên của đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khối nước ở trên;
b. Từ "Thụy Điển"
có nghĩa Vương quốc Thụy Điển và; khi dùng theo nghĩa địa lý bao gồm lãnh thổ
quốc gia, lãnh hải của Thụy Điển cũng như những vùng biển trên đó Thụy Điển
thực hiện các quyền chủ quyền hay quyền tài phán phù hợp với Luật pháp quốc tế;
c. Thuật ngữ "Nước ký
kết" và "Nước ký kết kia" có nghĩa là Việt Nam hay
Thụy Điển tùy theo ngữ cảnh;
d. Thuật ngữ "đối tượng"
bao gồm cá nhân, công ty hay bất kỳ tổ chức nào;
e. Thuật ngữ "công ty"
để chỉ các tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức
công ty dưới giác độ thuế;
f. Thuật ngữ "xí nghiệp
của Nước ký kết" và "xí nghiệp của nước ký kết kia" có
nghĩa là một xí nghiệp được điều hành bởi đối tượng cư trú của một Nước ký kết
và một xí nghiệp được điều hành bởi đối tượng cư trú của Nước ký kết kia.
g. Thuật ngữ "đối tượng
mang quốc tịch của một nước" có nghĩa:
(i) bất kỳ cá nhân nào mang quốc
tịch một Nước ký kết;
(ii) bất kỳ pháp nhân, tổ chức
hùn vốn và hiệp hội nào có tư cách được chấp nhận theo các luật có hiệu lực tại
một Nước ký kết;
h. Thuật ngữ "vận tải
quốc tế" có nghĩa là bất cứ sự vận chuyển nào bằng tầu thủy hoặc máy
bay được thực hiện bởi một xí nghiệp của một Nước ký kết, trừ trường hợp khi
chiếc tàu thủy hoặc máy bay đó chỉ hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký
kết kia; và
i. Thuật ngữ "nhà chức
trách có thẩm quyền" có nghĩa:
(i) Trong trường hợp đối với
Việt Nam, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ
trưởng; và
(ii) Trong trường hợp đối với
Thụy Điển, là Bộ trưởng Bộ Tài chính, người đại diện được ủy quyền của Bộ
trưởng hay cơ quan được chỉ định là nhà chức trách có thẩm quyền theo Hiệp định
này.
2/ Trong khi một nước ký kết áp
dụng Hiệp định này, mọi thuật ngữ chưa được định nghĩa trong Hiệp định này sẽ
có nghĩa theo như định nghĩa trong luật của Nước đó đối với các loại thuế mà
Hiệp định này áp dụng, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
Điều 4: Đối
tượng cư trú
1/ Theo nghĩa trong Hiệp định
này, thuật ngữ "đối tượng cư trú của một Nước ký kết" có nghĩa là bất
cứ đối tượng nào, mà theo các luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ
vào nhà ở, nơi cư trú, quốc tịch, trụ sở điều hành hoặc các tiêu chuẩn khác có
tính chất tương tự.
2/ Trường hợp theo những quy
định tại khoản 1 khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết,
thì thân phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
a. Cá nhân đó sẽ được coi là đối
tượng cư trú của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú. Nếu cá nhân đó
có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư
trú của Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn
(trung tâm của các quyền lợi chủ yếu);
b. Nếu như không thể xác định
được Nước ký kết mà ở đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân
đó không có nhà ở thường trú ở cả hai Nước thì cá nhân đó được coi là đối tượng
cư trú của Nước nơi cá nhân đó thường sống;
c. Nếu cá nhân đó thường sống ở
cả hai Nước hay không sống thường xuyên ở Nước nào thì cá nhân đó được coi là
đối tượng cư trú của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d. Nếu cá nhân đó là đối tượng
mang quốc tịch của cả hai Nước hoặc không mang quốc tịch của cả hai Nước này
thì các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề
đó bằng thỏa thuận chung.
3/ Trường hợp do những quy định
tại khoản 1 khi Điều này, khi một đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng
cư trú của hai Nước ký kết, lúc đó, đối tượng trên sẽ là được coi là đối tượng
cư trú của Nước nơi đóng trụ sở điều hành thực tế của đối tượng đó.
Điều 5
1/ Theo Hiệp định này, thuật ngữ
"cơ sở thường trú" có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố định mà
qua đó xí nghiệp thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2/ Thuật ngữ "cơ sở
thường trú" chủ yếu bao gồm:
a. Trụ sở điều hành;
b. Chi nhánh;
c.Văn phòng;
d. Nhà máy;
e. Xưởng; và
f. Mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá
hoặc bất kỳ địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác.
3/ Một địa điểm xây dựng, công
trình xây dựng, lắp ráp hoặc lắp đặt hay các hoạt động giám sát liên quan đến
các địa điểm, công trình trên sẽ tạo nên một cơ sở thường trú chỉ trong trường
hợp địa điểm, công trình hay các hoạt động đó kéo dài với thời hạn hơn 6 tháng;
4/ Mặc dù có những quy định tại
khoản 1 và 2, việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm cả các dịch vụ tư vấn do một
xí nghiệp thực hiện thông qua người làm công cho xi nghiệp hay các đối tượng
khác được xí nghiệp ủy nhiệm thực hiện, sẽ luốn tạo nên một cơ sở thường trú
khi những hoạt động mang tính chất nói trên (trong cùng một dự án hay trong các
dự án có liên quan) kéo dài tại một Nước trong một thời gian hay nhiều khoảng
thời gian gộp lại hơn 6 tháng trong bất kỳ khoảng thời hạn 12 tháng liên tục.
5/ Mặc dù có những quy định trên
của Điều này, thuật ngữ "cơ sở thường trú" không bao gồm:
a. Việc sử dụng các phương tiện
riêng cho mục đích lưu kho, hoặc trưng bày hàng hóa hay tài sản của xí nghiệp;
b. Việc duy trì kho hàng hóa
hoặc tài sản của xí nghiệp chỉ với mục đích lưu kho hoặc trưng bày;
c.Việc duy trì kho hàng hóa hoặc
tài sản của xí nghiệp chỉ với mục đích chỉ để cho xí nghiệp khác gia công;
d. Việc duy trì một cơ sở kinh
doanh cố định chỉ nhằm mục đích mua hàng hóa hoặc tài sản hay để thu thập thông
tin cho xí nghiệp đó;
e. Việc duy trì một cơ sở kinh
doanh cố định chỉ với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác có tính chất
chuẩn bị hoặc phụ trợ cho xí nghiệp;
f. Việc duy trì một cơ sở kinh
doanh cố định chỉ với mục đích kết hợp bất kỳ hoạt động nào nêu từ điểm a tới
điểm e, với điều kiện toàn bộ hoạt động của cơ sở kinh doanh cố định từ sự kết
hợp trên mang tính chất chuẩn bị hay phụ trợ.
6/ Mặc dù những quy định tại
khoản 1 và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được
điều chỉnh bởi khoản 8 - hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một xí
nghiệp của Nước ký kết kia, thì xí nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú
tại Nước ký kết thứ nhất đối với các hoạt động mà đối tượng này thực hiện cho
xí nghiệp, nếu đối tượng đó:
a. Có và thường xuyên thực hiện
tại Nước có thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên xí ngjiệp, trừ khi các hoạt
động của đối tượng này chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 5
mà những hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh cố định
thì sẽ không làm cho cơ sở kinh doanh cố định đó trở thành một cơ sở thường trú
theo những quy định tại khoản đó; hay
b. Không có thẩm quyền trên, nhưng
thường xuyên duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa hay tài sản, từ đó đối
tượng trên thường xuyên thực hiện việc giao hàng hóa đại diện cho xí nghiệp.
7/ Mặc dù đã có những quy định
trên của Điều này, một công ty bảo hiểm của một Nước ký kết, trừ trường hợp đối
với tái bảo hiểm, sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu
công ty bảo hiểm đó thu phí bảo hiểm trên lãnh thổ của Nước ký kết kia hay thực
hiện bảo hiểm các rủi ro tại Nước đó thông qua một đối tượng không phải đại lý
có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 8.
8/ Một xí nghiệp của một Nước ký
kết sẽ không được coi là có cơ sở thường trú ở Nước ký kết kia nếu xí nghiệp đó
chỉ thực hiện hoạt động kinh doanh tại Nước kia thông qua một đại lý môi giới,
một đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập với điều
kiện những đối tượng này chỉ hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường
của họ.
9/ Việc một công ty là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là
đối tượng cư trú của Nước ký kết kia hoặc đang tiến hành hoạt động kinh doanh
tại Nước kia (có thể thông qua một cơ sở thường trú hay dưới hình thức khác) sẽ
không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành thường trú của công ty kia.
Điều 6: Thu
nhập từ bất động sản
1/ Thu nhập mà một đối tượng cư
trú tại một Nước ký kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp
hoặc lâm nghiệp) nằm tại Nước ký kết kia thì có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2/ Thuật ngữ "bất động
sản" sẽ có nghĩa theo như luật của Nước ký kết nơi có bất động sản đó.
Trong mọi trường hợp, thuật ngữ này sẽ bao gồm cả những phần tài sản phụ kèm
theo bất động sản, đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm
nghiệp, các quyền lợi được áp dụng theo như những quy định tại luật chung về
điền sản, các loại nhà, quyền sử dụng bất động sản, và quyền được hưởng các
khoản thanh toán cố định hoặc thay đổi dwois dạng tiền công cho việc khai thác
hoặc quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên
khác; các tàu thủy và máy bay không được coi là bất động sản.
3/ Những quy định tại khoản 1 sẽ
áp dụng đối với thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hay sử
dụng các loại bất động sản dưới bất kỳ hình thức nào khác.
4/ Những quy định tại khoản 1 và
3 cũng sẽ áp dụng cho thu nhập từ bất động sản của một xí nghiệp và đối với thu
nhập từ bất động sản được sử dụng để thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân
độc lập.
Điều 7: Lợi
tức doanh nghiệp
1/ Lợi tức của một xí nghiệp tại
một Nước ký kết sẽ chỉ bị chịu thuế tại Nước đó, trừ trường hợp xí nghiệp có
tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường
trú tại Nước kia. Nếu xí nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các
khoản lợi tức của xí nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên
phần lợi tức phân bổ cho cơ sở thường trú đó.
2/ Thể theo các quy định tại
khoản 3, khi một xí nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh
tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia thì tại mỗi
Nước ký kết sẽ có những khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú nói
trên mà cơ sở đó có thể thu được, nếu nó là một xí nghiệp riêng, tách biệt cùng
tham gia vào các hoạt động tương tự trong cùng những điều kiện như nhau hay
tương tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với xí nghiệp mà cơ sở đó được coi là
thường trú.
3/ Trong khi xác định lợi tức
của một cơ sở thường trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí
phát sinh phục vụ cho hoạt động kinh doanh của cơ sở thường trú này bao gồm cả
chi phí điều hành và chi phí quản lý chung phát sinh tại Nước nơi cơ sở thường
trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên, sẽ không cho phép trừ chi
phí bất kỳ khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường trú trả cho (trừ khi là
khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn
phòng nào khác của xí nghiệp dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản lệ phí
hay bất kỳ khoản thanh toán nào tương tự để được sử dụng bằng phát minh hay các
quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ
đặc biệt hay trả cho công việc quản lý hay dưới hình thức lãi tính trên tiền
cho cơ sở thường trú vay, trừ trường hợp tiền lãi của cơ sở ngân hàng. Cũng
tương tự, trong khi xác định lợi tức của cơ sở thường trú sẽ không tính đến các
khoản tiền (trừ tiền thanh toán chi phí thực tế) do cơ sở thường trú tính vào
trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ văn phòng nào khác của xí nghiệp, dưới
hình thức tiền bản quyền, các khoản lệ phí hay các khoản thanh toán tương tự để
được sử dụng bằng phát minh hay các quyền khác, hay dưới hình thức tiền hoa
hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ đặc biệt hay trả cho công việc quản lý,
hay dưới hình thức lãi tính trên tiền cho trụ sở chính của xí nghiệp hay bất kỳ
văn phòng nào của xí nghiệp vay, trừ trường hợp lãi của cơ sở ngân hàng.
4/ Không một nội dung nào tại
Điều này ảnh hưởng đến việc áp dụng luật của một Nước ký kết la đến việc xác
định nghĩa vụ nộp thuế của một đối tượng trong trường hợp thông tin cung cấp
cho nhà chức trách có thẩm quyền của Nước đó không chính xác để có thể xác định
các khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú, với điều kiện luật trên sẽ
được áp dụng, trong phạm ci thông tin nhà chức trách thẩm quyền đã có cho phép,
phù hợp với những nguyên tắc của Điều này.
5/ Trường hợp tại một Nước ký
kết vẫn thường xác định các khoản lợi tức phân bổ cho cơ sở thường trú trên cơ
sở phân chia tổng lợi tức của xí nghiệp thành các phần khác nhau, thì không có
nội dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi tức chịu thuế
theo cách phân chia theo thông lệ đó; tuy nhiên phương pháp phân chia được áp
dụng sẽ đưa ra kết qủa phù hợp với những nguyên tắc tại Điều này.
6/ Theo nội dung những khoản trên,
các khoản lợi tức được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng
một phương pháp qua các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để thay đổi.
7/ Khi lợi tức bao gồm các khoản
thu nhập hay lợi tức từ chuyển nhượng tài sản được đề cập riêng tại các Điều
khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều đó không bị ảnh hưởng bởi
những quy định tại Điều này.
Điều 8: Vận
tải biển và vận tải hàng không
1/ Lợi tức do một xí nghiệp của
một Nước ký kết thu được từ hoạt động của máy bay hoặc tàu thủy trong vận tải
quốc tế sẽ chỉ chịu thuế tại Nước đó.
2/ Đối với các khoản lợi tức do
Côngxoocxiom vận tải hàng không, hệ thống hàng không Xcăngđinavi (SAS), thu
được, những quy định tại khoản 1 sẽ chỉ áp dụng cho phần lợi tức tương ứng với
phần góp vốn vào Côngxoocxiom của AB aerotransport (ABA), bên Thụy Điển tham
gia vào hệ thống hàng không Xcăngđinavi (SAS).
3/ Những quy định tại khoản 1
cũng sẽ áp dụng cho các khoản lợi tức thu được từ việc tham gia vào tổ hợp, một
liên doanh hay một hãng hoạt động quốc tế.
Điều 9: Những
xí nghiệp liên kết
1/ Khi:
a. một xí nghiệp của một Nước ký
kết tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp
vốn vào một xí nghiệp của một Nước ký kết kia, hoặc;
b. các đối tượng cùng tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một xí
nghiệp của một Nước ký kết và vào một xí nghiệp của Nước ký kết kia,và trong cả
hai trường hợp, trong mối quan hệ tài chính và thương mại giữa hai xí nghiệp
trên có những điều kiện được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra
giữa các xí nghiệp độc lập, lúc đó mọi khoản lợi tức mà một xí nghiệp có thể
thu được nếu không có những điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà
xí nghiệp đó không thu được, sẽ vẫn được một Nước ký kết tính vào các khoản lợi
tức của xí nghiệp đó và phải thu thuế tương ứng.
2/ Không một nội dung nào tại
Điều này ảnh hưởng đến việc áp dụng luật của một Nước ký kết liên quan đến việc
xác định nghĩa vụ nộp thuế của một đối tượng, kể cả việc xác định trong những
trường hợp thông tin cung cấp cho nhà chức trách có thẩm quyền của Nước đó
không chính xác để có thể xác định các khoản thu nhập được phân bổ cho xí
nghiệp, với điều kiện luật trên sẽ được áp dụng, như thường thực hiện trên thực
tế phù hợp với những nguyên tắc của Điều này.
Điều 10: Tiền
lãi cổ phần
1/ Tiền lãi cổ phần do một công
ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2/ Tuy nhiên, những khoản tiền
lãi cổ phần đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ
phần là đối tượng cư trú và theo luật pháp của Nước kết đó, nhưng nếu người
nhận là người thực hưởng tiền lãi cổ phần thì thuế khi đó phải nộp không vượt
qúa:
(a) 5 phần trăm tổng số tiền lãi
cổ phần nếu đối tượng thực hưởng là một công ty (trừ tổ chức hùn vốn) trực tiếp
nắm giữ ít nhất 70 phần trăm vốn hay đầu tư tối thiểu 12 triệu đô là Mỹ vào vốn
công ty trả tiền lãi cổ phần;
(b) 10 phần trăm tổng số tiền
lãi cổ phần nếu đối tượng thực hưởng là một công ty (trừ tổ chức hùn vốn) nắm
giữ dưới 70 phần trăm nhưng ít nhất 25 phần trăm vốn công ty trả tiền lãi cổ
phần;
(c ) 15 phần trăm tổng số tiền
lãi cổ phần trong tất cả các trường hợp khác.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới
việc đánh thuế công ty đối với khoản lợi tức được dùng để chia trên lãi cổ phần.
3/ Thuật ngữ "tiền lãi
cổ phần" được sử dụng trong Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần,
cổ phần khai thác, cổ phần sáng lập hoặc các quyền lợi khác, không kể các khoản
nợ, được hưởng lợi tức, cũng như thu nhập từ các quyền lợi công ty khác cùng
chịu sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo luật
của Nước nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
4/ Những quy định tại khoản 1 và
2 sẽ không áp dụng trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ
phần là đối tượng cư trú tại một Nước ký kết có tiến hành hoạt động doanh
nghiệp tại Nước ký kết kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư
trú, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước đó, hay tiến hành tại Nước kia
các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước
kia, và quyền nắm giữ cổ phần có số tiền lãi cổ phần được chia, có sự liên hệ
thực tế đến cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố nói trên. Trong trường hợp nêu trên,
các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14 của Hiệp định này, tùy từng trường hợp, sẽ
được áp dụng.
5/ Khi một công ty là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết có lợi tức hay thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia
thì Nước ký kết kia có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần
do công ty này trả, trừ trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả
cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các
khoản tiền lãi cổ phần được chia có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú
hay một cơ sở cố định tại Nước ký kết kia, đồng thời Nước ký kết kia cũng không
buộc các khoản lợi tức không chia của công ty trên phải chịu thuế đối với những
khoản lợi tức không chia của công ty, cho dù những khoản tiền lãi cổ phần được
chia hoặc các khoản lợi tức không chia bao gồm toàn bộ hay một phần các khoản
lợi tức hoặc thu nhập phát sinh tại Nước ký kết kia.
Điều 11: Lãi
tiền cho vay
1/ Lãi từ tiền cho vay phát sinh
tại một Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước kia.
2/ Tuy nhiên, khoản tiền lãi này
cũng có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo luật pháp của
Nước đó, nhưng nếu người nhận là người thực hưởng các khoản tiền lãi này thì
mức thuế khi đó được tính sẽ không qúa 10% của tổng số khoản lãi tiền cho vay.
3/ Mặc dù đã có những quy định
tại khoản 2, lãi tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết và trả cho Chính
phủ của Nước ký kết kia sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất.
Theo nội dung của khoản này, từ
"Chính phủ":
a. Trong trường hợp tại Việt
Nam, có nghĩa là Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và sẽ bao
gồm:
(i) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
(ii) Các cơ quan chính quyền địa
phương; và
(iii) Các cơ sở có vốn toàn bộ
thuộc sở hữu của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hay bất kỳ
cơ quan chính quyền địa phương được các nhà chức trách có thẩm quyền của hai
Nước ký kết thỏa thuận trong từng thời kỳ;
b.Trong trường hợp tại Thụy
Điển, có nghĩa là Chính phủ Vương quốc Thụy Điển và sẽ bao gồm:
(i) Ngân hàng Trung ương;
(ii) cơ quan chính quyền cơ sở
hay chính quyền địa phương;
(iii) SWEDCORP và Swedfund
International AB hay bất kỳ cơ sở Thụy Điển nào khác do Chính phủ Thụy Điển
thành lập với cùng mục đích với những cơ sở nói trên được nhà chức trách có
thẩm quyền của hai Nước ký kết thỏa thuận trong từng thời kỳ.
4/ Thuật ngữ "lãi tiền
cho vay" dùng ở Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay
dưới bất kỳ dạng nào, có hay không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không
có quyền được hưởng lợi tức của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ
chứng khoán của Nhà nước và thu nhập từ công trái hoặc trái phiếu, bao gồm cả
tiền thưởng và giải thưởng đi liền với các chứng khoán, công trái hoặc trái
phiếu đó. Tiền phạt thanh toán chậm sẽ không được coi là lãi tiền cho vay theo
nội dung của Điều này.
5/ Những quy định tại khoản 1, 2
và 3 sẽ không được áp dụng nếu người thực hưởng các khoản lãi tiền cho vay là
đối tượng cư trú tại một Nước ký kết, tiến hành hoạt động doanh nghiệp tại Nước
ký kết kia nơi phát sinh các khoản lãi tiền vay thông qua một cơ sở thường trú
tại Nước kia hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập
thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước kia, và khoản nợ có các khoản tiền lãi
được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó. Trong
trường hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ
được áp dụng.
6/ Lãi từ tiền cho vay sẽ được
coi là phát sinh tại một Nước ký kết khi người trả chính là Nhà nước đó, chính
quyền cơ sở, chính quyền địa phương, hoặc đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy
nhiên, khi đối tượng trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay một
cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và
khoản tiền lãi đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì dù đối
tượng có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi này
sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hay cơ sở cố định đó
đóng.
7/ Trường hợp do mối quan hệ đặc
biệt giữa đối tượng trả lãi và đối tượng hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng
trên với các đối tượng khác, khoản lãi tiền cho vay được trả vượt qúa, vì bất
cứ lý do gì, khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực
hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định của Điều này sẽ
chỉ áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc biệt
trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo luật của
từng Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này.
Ðiều 12: Tiền
bản quyền
1/ Tiền bản quyền phát sinh tại
một Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
phải chịu thuế tại Nước kia.
2/ Tuy nhiên, những khoản tiền
bản quyền đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo
luật của Nước ký kết này, nhưng nếu người nhận tiền bản quyền là đối tượng thực
hưởng tiền bản quyền, thì mức thuế được tính sẽ không vượt qúa 15% tổng số tiền
bản quyền được trả. Mặc dù đã có quy định tại câu trên, nếu tiền bản quyền được
trả cho bằng phát minh, thiết kế hoặc mẫu, công thức hoặc quy trình bí mật, hay
trả cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp hoặc khoa học, hay
trả cho việc sử dụng hay quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hay
khoa học liên quan tới qúa trình chuyển giao bí quyết công nghệ, mức thuế được
tính sẽ không vượt qúa 5 phần trăm tổng số tiền bản quyền.
3/ Thuật ngữ "tiền bản
quyền" được sử dụng trong Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán ở
bất kỳ dạng nào được trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bản quyền tác
giả của một tác phẩm văn học, nghệ thuật hay khoa học, kể cả phim điện ảnh hoặc
các loại phim hay các loại băng dùng trong phát thanh và truyền hình, bằng phát
minh, nhãn hiệu thương mại, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc qui trình
bí mật, hay trả cho việc sử dụng, hay quyền sử dụng thiết bị công nghiệp,
thương mại hoặc khoa học, hay trả cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm
công nghiệp, thương nghiệp hoặc khoa học.
4/ Những quy định tại khoản 1 và
2 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động doanh nghiệp ở Nước ký
kết kia nơi có khoản tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú
nằm tại Nước kia hoặc tiến hành tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc
lập thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước kia, và quyền hay tài sản có các
khoản tiền bản quyền được trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc
cơ sở cố định đó. Trong trường hợp này, các quy định của Điều 7 hoặc Điều 14,
tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5/ Tiền bản quyền sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền là Nhà nước đó,
chính quyền cơ sở, chính quyền địa phương hoặc là đối tượng cư trú của Nước đó.
Tuy nhiên, khi một đối tượng trả tiền bản quyền, là hay không là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hay cơ sở cố
định liên quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh và tiền bản
quyền đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản
quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hay cơ sở
cố định đó đóng.
6/ Trường hợp vì mối quan hệ đặc
biệt giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên
với các đối tượng khác khoản tiền bản quyền được trả đối với việc sử dụng,
quyền hoặc thông tin, vì bất cứ lý do gì vượt qúa khoản tiền được thỏa thuận
giữa đối tượng trả tiền và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc
biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh
toán khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt
sẽ bị đánh thuế theo luật của từng Nước ký kết có xem xét đến các quy định khác
của Hiệp định này.
Điều 13: Lợi
tức từ chuyển nhượng tài sản
1/ Lợi tức thu được từ việc
chuyển nhượng bất động sản được nêu tại khoản 2 Điều 6 có thể bị đánh thuế tại
Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Lợi tức do một đối tượng cư trú của một
Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng cổ phần hay các quyền lợi tương ứng
tại một công ty có tài sản bao gồm toàn bộ hay chủ yếu là bất động sản nằm tại
Nước ký kết kia có thể phải nộp thuế tại Nước kia.
2/ Những khoản lợi tức từ việc
chuyển nhượng động sản là một phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường
trú mà một xí nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia hoặc động sản
thuộc một cơ sở cố định của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước
ký kết kia để tiến hành hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập kể cả lợi tức từ việc
chuyển nhượng cơ sở thường trú đó (riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn
bộ xí nghiệp) hoặc cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3/ Lợi tức thu được từ việc
chuyển nhượng bất kỳ tài sản nào trừ tài sản được nêu tại khoản 1 và 2 sẽ chỉ
chịu thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú. Tuy
nhiên, lợi tức do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ việc
chuyển nhượng cổ phần hay các quyền lợi tương ứng trong một công ty là đối tượng
cư trú tại Nước ký kết kia có thể phải nộp thuế tại Nước ký kết kia nếu người chuyển
nhượng ngay từ đầu hoặc hiện đang đầu tư gián tiếp dưới hình thức mua cổ phiếu
, công phiếu hoặc trái phiếu hay các hình thức chứng khoán khác, hoặc người
chuyển nhượng đã và hiện đang thuần tuý thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh tài
chính.
4/ Mặc dù đã có những quy định
tại khoản 3, lợi tức thu được từ việc chuyển nhượng cổ phần hay các quyền lợi
công ty khác của một cá nhân trước đây là đối tượng cư trú của một Nước ký kết
và nay đã trở thành đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và có thể phải nộp
thuế tại Nước thứ nhất nếu việc chuyển nhượng cổ phần hay các quyền lợi công ty
khác diễn ra trong giai đoạn 5 năm kể từ sau ngày cá nhân đó chấm dứt là đối
tượng cư trú của Nước thứ nhất.
Điều 14: Hoạt
động dịch vụ cá nhân độc lập
1/ Thu nhập do một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động dịch vụ ngành nghề hay các
hoạt động có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó. Tuy nhiên, khi
các hoạt động được tiến hành hay thực hiện tại Nước ký kết kia, thu nhập đó
cũng có thể phải nộp thuế tại Nước ký kết kia:
a. Nếu đối tượng cư trú thường
xuyên có tại Nước ký kết kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động trên;
trong trường hợp đó chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể phải
nộp thuế tại Nước ký kết kia; hay
b. Nếu đối tượng đó có mặt tại
Nước ký kết kia trong khoảng thời gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại đến
hay vượt qúa 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng liên tục; trong trường
hợp đó chỉ phần thu nhập thu được từ các hoạt động của đối tượng đó được thực
hiện tại Nước ký kết kia có thể phải nộp thuế tại Nước ký kết kia; hay
c. Nếu tiền thù lao trả cho các
hoạt động của đối tượng đó tại Nước ký kết kia do đối tượng cư trú tại Nước đó
trả hay do cơ sở thường trú hay cơ sở cố định nằm tại Nước ký kết đó chịu và
vượt qúa 40.000 đô là Mỹ trong năm tài chính.
2/ Thuật ngữ "dịch vụ
ngành nghề" bao gồm chủ yếu những hoạt động khoa học, văn học, nghệ
thuật, giáo dục hay giảng dạy mang tính chất độc lập cũng như các hoạt động độc
lập của các thầy thuốc, bác sĩ, luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, bác sĩ nha sĩ và
kế toán viên.
Điều 15: Hoạt
động dịch vụ cá nhân phụ thuộc
1/ Thể theo các quy định tại
Điều 16, 18 và 19 các khoản tiền lương, tiền công và các khoản tiền thù lao
tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động
làm công sẽ chỉ chịu thuế tại Nước đó, trừ khi công việc của đối tượng đó được
thực hiện tại Nước ký kết kia. Nếu công việc lao động được thực hiện như vậy,
số tiền công trả cho lao động đó có thể phải nộp thuế tại Nước kia.
2/ Mặc dù có những quy định tại
khoản 1, tiền công do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao
động làm công tại Nước ký kết kia sẽ chỉ phải nộp thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a. Người nhận tiền công có mặt
tại Nước trong một thời gian hoặc nhiều thời gian gộp lại không qúa 183 ngày
(năm dương lịch liên quan); và
b. Chủ lao động hay người đại
diện chủ lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại
Nước kia; và
c.Số tiền công không phải phát
sinh tại một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà người chủ lao động có tại
Nước kia.
3/ Mặc dù có những quy định trên
của Điều này, tiền công từ lao động làm trên tàu thủy hoặc máy bay do một xí
nghiệp của một Nước ký kết điều hành trong vận tải quốc tế có thể phải nộp thuế
tại Nước đó.
Điều 16: Thù
lao cho giám đốc
Các khoản thù lao cho giám đốc
và các khoản thanh toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết nhận được với tư cách là thành viên của ban giám đốc của một công ty là đối
tượng cư trú của Nước kia có thể phải nộp thuế ở Nước kia.
Điều 17: Nghệ
sĩ và vận động viên
1/ Mặc dù có những quy định tại
Điều 14 và 15 của Hiệp định này, thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước
ký kết thu được với tư cách người biểu diễn như diễn viên sân khấu, điện ảnh,
phát thanh hay truyền hình, hoặc nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên,
từ những hoạt động cá nhân của mình thực hiện tại Nước ký kết kia có thể bị
đánh thuế ở Nước kia.
2/ Trường hợp thu nhập liên quan
đến các hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên
nhưng không được trả cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả
cho một đối tượng khác thì thu nhập này có thể phải nộp thuế tại Nước ký kết
nơi diễn ra những hoạt động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên,
mặc dù có những quy định tại các Điều 7, 14 và 15.
3/ Những quy định tại khoản 1 và
2 sẽ không áp dụng cho những khoản tiền công hay lợi tức thu được từ các hoạt
động thực hiện tại một Nước ký kết nếu đợt biểu diễn tại Nước đó toàn bộ do các
qũy công của Nước ký kết kia trực tiếp bảo trợ theo chương trình trao đổi văn
hóa giữa hai Nước ký kết.
Điều 18: Tiền
lương hưu, tiền bảo hiểm hưu hàng năm và các khoản tiền tương tự
1/ Thể theo các quy định tại
khoản 2 Điều 19, tiền lương hưu và các khoản tiền công tương tự, tiền thanh
toán theo Luật bảo hiểm hưu hàng năm phát sinh tại một Nước ký kết và được trả
cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể phải nộp thuế tại Nước thứ
nhất.
2/ Thuật ngữ "tiền bảo
hiểm hưu hàng năm" có nghĩa là khoản tiền nhất định thanh toán định kỳ
vào những thời gian nhất định trong thời gian sống hay trong giai đoạn thời
gian được quy định hoặc cam kết thể theo nghĩa vụ đóng góp để nhận lại được số
tiền hay giá trị bằng tiền toàn bộ và tương ứng.
Điều 19: Phục
vụ Nhà nước
1/a. Tiền công lao động, trừ
tiền lương hưu, do một Nước ký kết hoặc một cơ quan chính quyền cơ sở hoặc
chính quyền địa phương của Nước đó trả cho một cá nhân đối với việc phục vụ cho
Nhà nước hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương sẽ chỉ bị đánh thuế
tại Nước đó.
b. Tuy nhiên khoản tiền công lao
động này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực
hiện tại Nước kia và nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng
thời;
(i) là đối tượng mang quốc tịch
của Nước kia; hoặc
(ii) không trở thành đối tượng
cư trú của Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc trên.
2/a. Bất kỳ khoản tiền lương hưu
nào (trừ tiền lương hưu trả theo Luật bảo hiểm xã hội) do một Nước ký kết hoặc
một cơ quan chính quyền địa phương của Nước này hoặc do các qũy của những cơ
quan này lập ra trả cho một cá nhân đối với các công việc phục vụ cho Nhà nước
hoặc các cơ quan này sẽ chỉ chịu thuế ở Nước này.
b. Tuy nhiên, những khoản tiền
lương hưu này sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước ký kết kia nếu cá nhân này vừa là đối
tượng cư trú, và là đối tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia.
3/ Các quy định của các Điều 15,
16, và 18 sẽ áp dụng đối với những khoản tiền công lao động và lương hưu đối
với các công việc liên quan đến một hoạt động kinh doanh được tiến hành bởi một
Nước ký kết hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó.
Điều 20: Sinh
viên và thực tập sinh
Những khoản tiền mà một sinh
viên hay thực tập sinh nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập
hay đào tạo mà người sinh viên hay thực tập sinh này ngay trước khi đến Nước ký
kết này đang và đã là người cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại Nước
thứ nhất chỉ với mục đích học tập hay đào tạo, thì không bị đánh thuế tại Nước
thứ nhất, với điều kiện những khoản tiền đó có nguồn gốc từ bên ngoài Nước này.
Điều 21: Thu
nhập khác
1/ Những khoản thu nhập của một
đối tượng cư trú của một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập
đến tại những Điều trên của Hiệp định này, sẽ chỉ phải nộp thuế tại Nước đó.
2/ Tuy nhiên, bất kỳ khoản thu
nhập nào, do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ các nguồn tại
Nước ký kết kia cũng có thể phải nộp thuế tại Nước kia.
3/ Những quy định tại khoản 1 sẽ
không áp dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa
tại khoản 2 Điều 6, nếu đối tượng nhận thu nhập là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết, có tiến hành kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở
thường trú nằm tại Nước kia hay thực hiện tại Nước ký kết kia những hoạt động
dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và quyền lợi
hay tài sản liên quan đến số thu nhập được chi trả có sự liên hệ thực tế với cơ
sở thường trú hay cơ sở cố định như trên. Trong trường hợp như vậy, những quy
định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
Điều 22: Xóa
bỏ việc đánh thuế hai lần
1/ Trong trường hợp đối với Việt
Nam việc tránh đánh thuế hai lần sẽ được thực hiện như sau:
Khi một đối tượng cư trú của
Việt Nam có thu nhập, lợi tức hay lợi tức từ chuyển nhượng tài sản mà theo luật
Thụy Điển và phù hợp với Hiệp định này có thể phải nộp thuế tại Thụy Điển, Việt
Nam sẽ cho phép đối tượng đó được khấu trừ vào thuế Việt Nam tính trên thu
nhập, lợi tức hay lợi tức chuyển nhượng tài sản đó một khoản tiền tương đương
số thuế đã nộp tại Thụy Điển. Tuy nhiên, số thuế được khấu trừ sẽ không vượt
qúa số tiền thuế Việt Nam được tính trên thu nhập, lợi tức hay lợi tức chuyển
nhượng tài sản theo các luật và quy định thuế của Việt Nam.
2/ Trong trường hợp đối với Thụy
Điển, việc tránh đánh thuế hai lần sẽ được thực hiện như sau:
(a) Khi một đối tượng cư trú tại
Thụy Điển có thu nhập mà theo Luật thuế tại Việt Nam và phù hợp với quy định
của Hiệp định này có thể phải nộp thuế tại Việt nam, Thụy Điển sẽ căn cứ vào
những quy định trong Luật của Thụy Điển về việc khấu trừ thuế nộp tại Nước
ngoài (được sửa đổi trong từng giai đoạn thời gian, nhưng không làm thay đổi
nguyên tắc chung tại các Luật đó) cho phép đối tượng đó được trừ vào số thuế
thu trên thu nhập đó một khoản tiền tương đương với số thuế Việt Nam đã nộp
trên thu nhập đó.
(b) Khi một đối tượng cư trú của
Thụy Điển có thu nhập mà theo những quy định tại Hiệp định này sẽ chỉ phải nộp
thuế tại Việt Nam, Thụy Điển có thể tính đến phần thu nhập chỉ bị nộp thuế tại
Việt nam đó trong qúa trình xác định thuế suất lũy tiến của thuế Thụy Điển.
(c) Mặc dù đã có những quy định
tại điểm (a) tại khoản này, tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư trú
của Việt Nam trả cho một công ty là đối tượng cư trú của Thụy Điển sẽ được miễn
thuế tại Thụy Điển theo những quy định tại Luật của Thụy Điển về việc miễn thuế
đối với tiền lãi cổ phần do công ty con ở nước ngoài trả cho các công ty Thụy
Điển.
(d) Theo nội dung điểm (a) tại
khoản này từ "số thuế Việt nam đã nộp" sẽ được coi là bao gồm cả phần
thuế Việt Nam lẽ ra phải nộp nếu không được miễn hay giảm thuế trong thời gian
giới hạn theo những quy định ưu đãi trong các Luật của Việt Nam được xây dựng
nhằm khuyến khích phát triển kinh tế trong phạm vi những quy định miễn giảm hay
giảm thuế đó được áp dụng cho các khoản lợi tức từ các hoạt động công nghiệp và
sản xuất cũng như ngành nông nghiệp (kể cả chăn nuôi), lâm nghiệp, ngư nghiệp,
du lịch (kể cả khách sạn và nhà hàng), khai thác mỏ và khai thác đá, với điều
kiện các hoạt động đó được tiến hành tại Việt Nam. Theo nội dung điểm (c) tại
khoản này một khoản thuế với thuế suất 15 phần trăm tính trên cơ sở thuế Thụy
Điển sẽ được coi là đã nộp đối với các hoạt động đó theo những điều kiện nêu
tại câu trên.
(e) Theo nội dung điểm (a) tại
khoản này số thuế Việt Nam đã nộp đối với tiền bản quyền nhận được (theo khoản
2 Điều 12 số thuế này sẽ không vượt qúa 5 phần trăm tổng số tiền bản quyền) với
tính chất trên trả cho việc sử dụng bằng phát minh, thiết kế hoặc mẫu, đồ án,
công thức hoặc quy trình bí mật, hay trả cho thông tin liên quan đến kinh
nghiệm công nghiệp, khoa học hoặc thương mại, khi bản quyền đó được sử dụng
trong các hoạt động nêu tại điểm (d) theo những điều kiện quy định tại điểm đó,
sẽ luôn được coi là đã được nộp ở mức 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền.
(f) Những quy định tại điểm (d)
và (e) sẽ chỉ áp dụng trong 10 năm đầu khi Hiệp định có hiệu lực. Thời hạn này
có thể được kéo dài bằng thỏa thuận song phương giữa các nhà chức trách có thẩm
quyền.
Điều 23: Giới
hạn quyền được miễn giảm
Khi bất kỳ đối tượng nào có thu
nhập không phải tiền lãi cổ phần nêu tại Điều 10 phát sinh từ nguồn nằm ngoài
Việt Nam và cũng được miễn thuế tại Thụy Điển theo Hiệp định này, Thụy Điển có
thể đánh thuế đối với thu nhập đó thể theo Luật của Thụy Điển mặc dù đã có
những quy định tại Hiệp định này.
Điều 24: Không
phân biệt đối xử
1/ Những đối tượng mang quốc
tịch của một Nước ký kết sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ hình
thức thuế nào hay bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với
hay nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang và có thể áp
dụng cho các đối tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia trong cùng những hoàn
cảnh như nhau.
2/ Thuế áp dụng đối với một cơ
sở thường trú của một xí nghiệp của một Nước ký kết đặt tại Nưóc ký kết kia sẽ
không kém thuận lợi hơn thuế áp dụng đối với các xí nghiệp của Nước ký kết kia
cùng thực hiện những hoạt động tương tự. Quy định này sẽ không được giải thích
là buộc một Nước ký kết phải cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia được
hưởng các suất miễn thu cá nhân, khoản miễn thuế và giảm thuế căn cứ vào tư
cách dân sự hay trách nhiệm gia đình mà Nước đó cho đối tượng cư trú tại Nước
mình trong được hưởng.
3/ Trừ khi những quy định tại
khoản 1 Điều 9, khoản 7 Điều 11 hay khoản 6 Điều 12 của Hiệp định này được áp
dụng, lãi tiền cho vay, tiền bản quyền và các khoản thanh toán khác do một xí
nghiệp của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của một Nước ký kết kia
sẽ được phép trừ vào chi phí để xác định lợi tức chịu thuế của xí nghiệp đó
theo cùng các điều kiện nếu như là các khoản tiền lãi vay, tiền bản quyền trả
cho đối tượng cư trú tại Nước thứ nhất.
4/ Các xí nghiệp của một Nước ký
kết có toàn bộ hay một phần vốn do một hay nhiều đối tượng cư trú của Nước ký
kết kia kiểm soát hay sở hữu trực tiếp hay gián tiếp, sẽ không phải chịu tại
Nước ký kết thứ nhất bất kỳ hình thức thuế hay yêu cầu liên quan đến hình thức
thuế đó khác với hay nặng hơn hình thức thuế và những yêu cầu liên quan được áp
dụng cho các xí nghiệp tương tự khác của Nước thứ nhất.
5/ Những quy định tại khoản 2 và
4 của Điều này sẽ không áp dụng đối với thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của
Việt Nam mà trong mọi trường hợp loại thuế này sẽ không vượt qúa 10 phần trăm
tổng số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, và không áp dụng đối với chính sách
thuế Việt Nam liên quan tới các hoạt động thăm dò và sản xuất dầu lửa hay liên
quan tới các hoạt động sản xuất công nghiệp.
6/ Không có nội dung nào tại
Điều này được giải thích là bắt buộc một trong các Nước ký kết phải cho các cá
nhân không phải là đối tượng cư trú tại Nước ký kết đó được hưởng bất kỳ suất
miễn thu cho cá nhân, khoản miễn thuế và giảm thuế như quy định cho các cá nhân
là đối tượng cư trú tại Nước đó.
7/ Những quy định tại Điều này
sẽ chỉ áp dụng cho các loại thuế chịu sự điều chỉnh của Hiệp định này.
Điều 25: Các
thủ tục thỏa thuận song phương
1/ Trường hợp một đối tượng là
đối tượng cư trú tại một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của nhà
chức trách có thẩm quyền tại một hay cả hai Nước ký kết làm cho hay sẽ làm cho
đối tượng đó phải nộp thuế không đúng nội dung Hiệp định này, lúc đó đối tượng
này có thể giải trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của
Nước ký kết nơi đối tượng đó đang cư trú, mặc dù tại các luật trong nước của
hai Nước đã quy định những chế độ xử lý khiếu nại. Trường hợp đó phải được giải
trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo giải quyết đầu tiên dẫn đến hình
thức thuế áp dụng không đúng với những quy định tại Hiệp định.
2/ Nhà chức trách có thẩm quyền
sẽ cố gắng, nếu như việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó
không thể đi đến một giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm
quyền của Nước ký kết kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng sự thỏa
thuận song phương, nhằm mục đích tránh đánh thuế không phù hợp với nội dung của
Hiệp định này. Mọi thỏa thuận đạt được sẽ được thực hiện không căn cứ vào những
giới hạn thời gian ghi trong luật trong nước của hai Nước ký kết.
3/ Nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết sẽ cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận chung mọi khó khăn
hay vướng mắc nảy sinh trong qúa trình giải thích hay áp dụng Hiệp định này.
Hai bên cũng có thể trao đổi với nhau nhằm xóa bỏ việc đánh thuế hai lần trong
những trường hợp khác chưa được quy định trong Hiệp định.
4/ Nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết có thể trực tiếp thông báo cho nhau với mục đích nhằm đạt
được một thỏa thuận theo nội dung của những khoản trên đây. Nhà chức trách có
thẩm quyền của hai Nước thông qua trao đổi ý kiến sẽ xây dựng những thủ tục,
điều kiện, biện pháp và kỹ thuật song phương thích ứng để thực hiện thủ tục
thỏa thuận song phương quy định tại Điều này.
Điều 26: Trao
đổi thông tin
1/ Nhà chức trách có thẩm quyền
của hai nước ký kết sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc
triển khai thực hiện những quy định của Hiệp định này hay các luật trong nước
của từng Nước ký kết liên quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng sao
cho việc đánh thuế theo các luật trong nước sẽ không trái với Hiệp định này,
đặc biệt là, nhằm ngăn chặn việc trốn, lậu thuế. Việc trao đổi thông tin không
bị giới hạn bởi Điều 1. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được sẽ được giữ
bí mật giống như thông tin thu nhận theo luật trong nước của Nước này. Tuy
nhiên, nếu thông tin ban đầu được coi là thông tin bí mật tại Nước cung cấp
thông tin thì thông tin đó chỉ được cung cấp cho các đối tượng hay các cơ quan
chức trách (bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc
tính toán, thu, cưỡng chế hay truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại
thuế mà Hiệp định này áp dụng. Các đối tượng hoặc các cơ quan chức trách này sẽ
chỉ áp dụng các thông tin đó vào mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ
quan đó có thể cung cấp các thông tin này trong qúa trình tố tụng công khai của
tòa án hay trong các quyết định của tòa án. Các nhà chức trách có thẩm quyền
thông qua việc trao đổi sẽ xây dựng những điều kiện, biện pháp kỹ thuật thích
hợp liên quan đến lĩnh vực thông tin được trao đổi bao gồm cả trao đổi thông
tin liên quan đến việc trốn thuế khi cần thiết.
2/ Không có trường hợp nào những
quy định tại khoản 1 được giải thích là buộc nhà chức trách có thẩm quyền của
một Nước ký kết có nghĩa vụ:
a. Thực hiện các biện pháp hành
chính khác với luật pháp hay thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó
hay của Nước ký kết kia;
b. Cung cấp những thông tin
không thể tiết lộ được theo các luật hay theo như qúa trình quản lý hành chính
thông thường của Nước ký kết đó hay của Nước ký kết kia;
c. Cung cấp những thông tin có
thể làm tiết lộ bí mật về mậu dịch, thương mại, công nghiệp, thương nghiệp hay
bí mật nghề nghiệp hoặc các phương thức kinh doanh, hoặc cung cấp những thông
tin mà tiết lộ chúng có thể trái với chính sách nhà nước.
Điều 27: Các
viên chức ngoại giao và lãnh sự
Những nội dung trong Hiệp định
này sẽ không ảnh hưởng đến những ưu đãi về thuế của các viên chức ngoại giao
hoặc viên chức lãnh sự theo những nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế hay
những quy định trong các Hiệp định riêng biệt.
Điều 28: Điều
khoản hiệu lực
1/ Từng Nước ký kết sẽ thông báo
cho Nước ký kết kia bằng văn bản việc hoàn thành các thủ tục cần thiết theo
luật của Nước mình để đưa Hiệp định này vào hiệu lực. Hiệp định nỳa sẽ có hiệu
lực kể từ thời điểm nhận được thông báo sau cùng.
2/ Hiệp định này sẽ được áp dụng
a. Tại Việt Nam:
(i) đối với các khoản thuế khấu
trừ tại gốc, thu trên các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả kể từ ngày 01
tháng 01 của năm sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực;
(ii) đối với các loại thuế Việt
Nam khác thu trên thu nhập, lợi tức, hay lợi tức chuyển nhượng tài sản phát
sinh trong năm dương lịch sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực;
b. Tại Thụy Điển:
đối với thu nhập phát sinh từ
ngày đầu tiên tháng 01 của năm sau năm Hiệp định có hiệu lực.
Điều 29: Điều
khoản kết thúc
Hiệp định này sẽ vẫn còn hiệu
lực cho tới khi một Nước ký kết tuyên bố kết thúc. Mỗi Nước ký kết thông qua
đường ngoại giao có thể kết thúc Hiệp định bằng cách gửi thông báo kết thúc
Hiệp định ít nhất 6 tháng trước khi kết thúc bất kỳ năm dương lịch nào bắt đầu
từ sau thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Trong trường hợp như
vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực thi hành:
a. Tại Việt Nam:
(i) đối với các khoản thuế khấu
trừ tại gốc, thu trên các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả kể từ ngày 01
tháng 01 của năm sau năm dương lịch gửi thông báo kết thúc Hiệp định;
(ii) đối với các loại thuế Việt
Nam khác thu trên thu nhập, lợi tức, hay lợi tức chuyển nhượng tài sản phát
sinh trong năm dương lịch sau năm dương lịch gửi thông báo kết thúc Hiệp định
và những năm dương lịch tiếp theo;
b. Tại Thụy Điển:
đối với thu nhập phát sinh từ
ngày đầu tiên tháng 01 của năm sau năm gửi thông báo kết thúc Hiệp định.
Để làm bằng những người được ủy
quyền dưới đây của từng Chính phủ đã ký vào Hiệp định này.
Hiệp định này làm thành hai bản
tại Stockholm ngày 24 tháng 03 năm 1994 mỗi bản gồm các thứ tiếng Việt, tiếng
Thụy Điển và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị ngang nhau. Trường
hợp có sự khác nhau giữa các văn bản, bản tiếng Anh sẽ có giá trị quyết định.
TM.
CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Phạm Ngạc
|
TM.
CHÍNH PHỦ
VƯƠNG QUỐC THUỴ ĐIỂN
Dick Kling
|
NGHỊ ĐỊNH THƯ
Tại thời điểm ký kết Hiệp định
giữa Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc
Thụy Điển về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với
thuế đánh vào thu nhập, những người ký dưới đây đã thống nhất những quy định
sau sẽ là bộ phận hợp thành của Hiệp định.
I. Đối với Điều 2:
Hai Bên thống nhất các khoản phí
bảo hiểm xã hội, kể cả phí thu trên qũy lương chung của Thụy Điển, không thuộc
phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này mặc dù các khoản phí trên được tính trên
tổng số tiền lương và tiền công do xí nghiệp trả.
II. Đối với
Điều 24:
Trong thời gian Việt Nam vẫn
tiếp tục cấp giấy phép cho nhà đầu tư theo Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam
trong đó quy định chi tiết hình thức thuế nhà đầu tư phải nộp thì việc áp dụng
hình thức thuế trên sẽ không bị coi là hành động vi phạm những quy định tại
khoản 2 và 4, Điều 24.
Để làm bằng những người được ủy
quyền dưới đây của từng Chính phủ đã ký vào Nghị định thư.
Nghị định thư được làm thành hai
bản tại Stockholm ngày 24 tháng 03 năm 1994 mỗi bản gồm các thứ tiếng Việt,
tiếng Thụy Điển và tiếng Anh, tất vả các văn bản đều có giá trị ngang nhau.
Trường hợp có sự khác nhau giữa các văn bản, bản tiếng Anh sẽ có giá trị quyết
định.
TM.
CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Phạm Ngạc
|
TM.
CHÍNH PHỦ
VƯƠNG QUỐC THUỴ ĐIỂN
Dick Kling
|