CHÍNH
PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
32/2002/NĐ-CP
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 3 năm 2002
|
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 32/2002/NĐ-CP NGÀY 27 THÁNG 3 NĂM 2002 QUY
ĐỊNH VIỆC ÁP DỤNG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Hôn nhân và Gia đình ngày 09 tháng 6 năm 2000;
Để tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khuyến khích phát huy các phong tục, tập
quán tốt đẹp và tiến tới xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và
gia đình của các dân tộc thiểu số;
Theo đề nghị của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc và Miền núi,
NGHỊ ĐỊNH:
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Đối
tượng và phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định việc áp dụng
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đối với công dân thuộc các dân tộc thiểu số
đang sinh sống ở vùng sâu, vùng xa; quy định việc áp dụng các phong tục, tập
quán về hôn nhân và gia đình của các dân tộc thiểu số đang sinh sống ở vùng
sâu, vùng xa.
Điều 2. Áp dụng
phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình
1. Phong tục, tập quán tốt đẹp về
hôn nhân và gia đình của các dân tộc thiểu số (được ghi trong Phụ lục A ban
hành kèm theo Nghị định này) thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với
những nguyên tắc quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì được tôn
trọng và phát huy.
2. Phong tục, tập quán lạc hậu về
hôn nhân và gia đình của các dân tộc thiểu số (được ghi trong Phụ lục B ban
hành kèm theo Nghị định này) trái với những nguyên tắc quy định của Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2000 thì bị nghiêm cấm hoặc vận động xoá bỏ.
Điều 3.
Trách nhiệm của Nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình của người dân thuộc
các dân tộc thiểu số
Các Bộ, ngành liên quan và các địa
phương xây dựng và thực hiện các chính sách, biện pháp tạo điều kiện để người
dân thuộc các dân tộc thiểu số thực hiện các quy định của pháp luật về hôn nhân
và gia đình; phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc
của mỗi dân tộc, xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình.
1. Tăng cường tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về hôn nhân và gia đình, vận động người dân phát huy truyền thống,
phong tục, tập quán tốt đẹp và xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân
và gia đình.
2. Tăng cường tuyên truyền, vận
động, hướng dẫn và giúp đỡ người dân thực hiện chính sách dân số và kế hoạch
hoá gia đình.
3. Khuyến khích mọi người giáo dục
thế hệ trẻ bảo tồn, phát triển ngôn ngữ, chữ viết và phát huy các giá trị văn
hoá, truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc.
Chương 2:
QUY ĐỊNH VỀ KẾT HÔN
Điều 4. Tuổi
kết hôn
Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ
từ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn để bảo đảm sự phát triển giống nòi, bảo
đảm cho các bên nam, nữ có đủ điều kiện về sức khoẻ và khả năng chăm lo cuộc sống
gia đình. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân
cấp xã), Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và các tổ chức thành viên, các Già làng, Trưởng
bản và các vị chức sắc tôn giáo thực hiện tuyên truyền vận động người dân xoá bỏ
phong tục, tập quán kết hôn trước tuổi quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000 (tảo hôn).
Điều 5. Bảo
đảm quyền tự do kết hôn của nam, nữ
1. Việc kết hôn do nam và nữ tự
nguyện quyết định; không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng; không bên nào
được ép buộc, lừa dối bên nào.
Ủy ban nhân dân cấp xã, Mặt trận
Tổ quốc cùng cấp và các tổ chức thành viên, các Già làng, Trưởng bản, các vị chức
sắc tôn giáo vận động, thuyết phục các bậc cha mẹ hướng dẫn con xây dựng gia
đình tiến bộ, không được cưỡng ép hoặc cản trở việc lấy vợ, lấy chồng của con;
vận động mọi người xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu cản trở quyền tự do kết
hôn của nam và nữ.
2. Nghiêm cấm tục cướp vợ để cưỡng
ép người phụ nữ làm vợ.
Không ai được lợi dụng việc xem
tướng số hoặc các hình thức mê tín dị đoan khác để cản trở việc thực hiện quyền
tự do kết hôn của nam và nữ.
Điều 6. Bảo
đảm quyền tự do kết hôn của người phụ nữ goá chồng, người đàn ông goá vợ
1. Người phụ nữ goá chồng, người
đàn ông goá vợ có quyền kết hôn với người khác và không phải trả lại tiền cưới
cho nhà chồng hoặc nhà vợ cũ. Khi kết hôn với người khác, quyền lợi về con cái
và tài sản của người đó được pháp luật bảo vệ.
2. Nghiêm cấm tập quán buộc người
vợ goá, chồng goá phải lấy một người khác trong gia đình chồng cũ hoặc gia đình
vợ cũ mà không được sự đồng ý của người đó.
Điều 7. Việc
kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ và giữa những người trong
dòng họ với nhau
Nghiêm cấm tập quán kết hôn giữa
những người có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có liên quan dòng họ trong phạm vi
ba đời.
Vận động xoá bỏ phong tục, tập
quán cấm kết hôn giữa những người có liên quan dòng họ trong phạm vi từ bốn đời
trở lên.
Điều 8. Đăng
ký kết hôn
Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư
trú của một trong hai bên kết hôn, thực hiện việc đăng ký kết hôn.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho
các bên kết hôn, việc đăng ký kết hôn cho người dân được thực hiện tại trụ sở Ủy
ban nhân dân cấp xã hoặc tại tổ dân phố, thôn, bản, phum, sóc, nơi cư trú của một
trong hai bên kết hôn.
Khi đăng ký kết hôn, các bên
nam, nữ cần làm Tờ khai đăng ký kết hôn và xuất trình Giấy chứng minh nhân dân
hoặc giấy tờ hợp lệ thay thế. Sau khi nhận Tờ khai đăng ký kết hôn, Ủy ban nhân
dân cấp xã kiểm tra, nếu các bên đã có đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại
Nghị định này, thì thực hiện việc đăng ký kết hôn. Sau khi hai bên nam, nữ ký
tên vào Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết hôn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã ký Giấy chứng nhận kết hôn. Bản chính Giấy chứng nhận kết hôn được trao
cho vợ, chồng tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc tại nơi cư trú.
Việc đăng ký kết hôn cho người
dân thuộc các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa được miễn lệ phí.
Điều 9. Áp dụng
phong tục, tập quán về nghi thức cưới hỏi
1. Các nghi thức cưới hỏi tiết
kiệm, lành mạnh thể hiện bản sắc của dân tộc mình mà không trái với những quy định
của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì được tôn trọng, phát huy.
2. Nghiêm cấm việc thách cưới
cao mang tính chất gả bán (như đòi bạc trắng, tiền mặt, của hồi môn, trâu, bò,
chiêng ché ... để dẫn cưới) và các hành vi cản trở việc kết hôn hoặc xâm phạm đến
nhân phẩm của người phụ nữ.
Chương 3:
QUAN HỆ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG,
GIỮA CHA MẸ VÀ CON, GIỮA CÁC THÀNH VIÊN KHÁC TRONG GIA ĐÌNH
Điều 10.
Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng
1. Trong gia đình, vợ, chồng
bình đẳng với nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt.
2. Các dân tộc có quan hệ gia
đình theo chế độ phụ hệ hoặc mẫu hệ có các phong tục, tập quán không bảo đảm
quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Mặt trận Tổ quốc
cùng cấp và các tổ chức thành viên, các Già làng, Trưởng bản, các vị chức sắc
tôn giáo vận động, thuyết phục người dân từng bước xoá bỏ sự bất bình đẳng giữa
vợ và chồng trong quan hệ gia đình, bảo đảm vợ, chồng có các quyền và nghĩa vụ
ngang nhau về mọi mặt theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
Điều 11.
Nơi cư trú của vợ, chồng
1. Vợ, chồng tự lựa chọn, thoả
thuận với nhau về việc ở riêng hoặc ở chung với gia đình nhà vợ hoặc gia đình
nhà chồng, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán. Sau khi kết hôn, vợ, chồng
có quyền sống chung với nhau, không ai được ngăn cản.
2. Các phong tục, tập quán ở dâu
hoặc ở rể, thì chỉ được áp dụng khi phù hợp với nguyện vọng lựa chọn nơi cư trú
của vợ, chồng.
Điều 12.
Quyền thừa kế tài sản giữa vợ, chồng
1. Các phong tục, tập quán không
bảo đảm quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng khi một bên chết, thì vận
động xoá bỏ phong tục, tập quán này nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
bên còn sống.
2. Việc thừa kế tài sản của nhau
giữa vợ và chồng khi một bên chết, thể hiện bản sắc dân tộc mà không trái với
những quy định của pháp luật về thừa kế, thì được tôn trọng và khuyến khích
phát huy.
Điều 13.
Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con
Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền
thương yêu, nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục con và bảo đảm quyền bình
đẳng giữa các con.
Nghiêm cấm cha, mẹ có hành vi
phân biệt đối xử giữa các con, không nuôi dưỡng, chăm sóc con, cố ý không cho
con đi học, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, xúi giục con thực hiện các hành
vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Vận động xoá bỏ các phong tục, tập
quán thể hiện sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái trong gia đình của
các dân tộc theo chế độ phụ hệ hoặc mẫu hệ.
Điều 14.
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ
Các phong tục, tập quán tốt đẹp
của các dân tộc thể hiện tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa
các thành viên trong gia đình và dòng họ, thì được tôn trọng và khuyến khích
phát huy.
Chương 4:
ĐĂNG KÝ NHẬN NUÔI CON
NUÔI
Điều 15. Áp
dụng các phong tục, tập quán về nuôi con nuôi
1. Nhà nước khuyến khích phát
huy tập quán của các dân tộc nhận những người thân thích trong dòng họ có hoàn
cảnh khó khăn và trẻ em mồ côi không nơi nương tựa làm con nuôi, nếu việc nuôi
con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
2. Vận động xoá bỏ tập quán nhận
nuôi con nuôi mà người nhận nuôi con nuôi không hơn người được nhận làm con
nuôi từ hai mươi tuổi trở lên.
Điều 16.
Đăng ký nuôi con nuôi
Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư
trú của người nhận nuôi con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi, thực hiện
việc đăng ký nuôi con nuôi.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho
các bên, việc đăng ký nuôi con nuôi được thực hiện tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp
xã hoặc tại tổ dân phố, thôn, bản, phum, sóc, nơi cư trú của người nhận nuôi
con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi.
Khi đăng ký nuôi con nuôi, người
xin nhận nuôi con nuôi phải nộp đơn xin nhận nuôi con nuôi và các giấy tờ hợp lệ
khác. Sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành xác minh
việc xin nhận nuôi con nuôi, nếu đã có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định
của pháp luật, thì thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi. Sau khi bên giao và
bên nhận nuôi con nuôi cùng ký tên vào Sổ đăng ký nhận nuôi con nuôi và biên bản
giao, nhận con nuôi, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký Quyết định công nhận
nuôi con nuôi. Bản chính Quyết định công nhận nuôi con nuôi được trao cho mỗi
bên một bản tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc tại nơi cư trú của người nhận
nuôi con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi.
Việc đăng ký nuôi con nuôi cho
người dân thuộc các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa được miễn lệ phí.
Điều 17.
Các trường hợp nhận nuôi con nuôi trước ngày 01 tháng 01 năm 2001 nhưng không
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Những trường hợp nhận nuôi con
nuôi được xác lập trước ngày 01 tháng 01 năm 2001, ngày Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000 có hiệu lực pháp luật, mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, nhưng có đủ điều kiện theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000 và trên thực tế, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đã được xác lập, các
bên đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, thì được pháp luật công
nhận và được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký
nuôi con nuôi. Nếu có tranh chấp liên quan đến việc xác định quan hệ giữa cha,
mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi thì do
Toà án giải quyết.
Chương 5:
QUY ĐỊNH VỀ LY HÔN
Điều 18. Giải
quyết việc ly hôn của vợ, chồng
1. Tòa án giải quyết việc ly hôn
của vợ, chồng.
Vận động xóa bỏ tập quán ly hôn
do Già làng, Trưởng bản hoặc các vị chức sắc tôn giáo giải quyết.
2. Trước khi Toà án thụ lý đơn
yêu cầu ly hôn của vợ, chồng, Nhà nước khuyến khích các Già làng, Trưởng bản hoặc
các vị chức sắc tôn giáo thực hiện hoà giải ở cơ sở. Việc hoà giải được thực hiện
theo quy định của pháp luật về hoà giải ở cơ sở.
Điều 19.
Chia tài sản của vợ, chồng khi ly hôn
1. Khi ly hôn, việc chia tài sản
chung của vợ, chồng phải đảm bảo sự công bằng, hợp lý và thực hiện theo nguyên
tắc mà pháp luật quy định.
Đối với các dân tộc theo chế độ
phụ hệ hoặc mẫu hệ thì cần chú ý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ
hoặc của người chồng trong việc chia tài sản chung khi ly hôn.
2. Nghiêm cấm phong tục, tập
quán đòi lại của cải, phạt vạ khi vợ, chồng ly hôn.
Điều 20. Việc
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
Sau khi ly hôn, việc giao con
chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình cho một bên trực
tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục phải căn cứ vào quyền lợi về mọi
mặt của con và phải tuân theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
Đối với các dân tộc theo chế độ
phụ hệ hoặc mẫu hệ, cần bảo vệ quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con của người vợ hoặc người chồng sau khi ly hôn.
Chương 6:
KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI
PHẠM
Điều 21.
Khen thưởng
Tập thể, cá nhân có thành tích
trong công tác phổ biến, giáo dục và thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000
đối với người dân thuộc các dân tộc thì được khen thưởng theo quy định của pháp
luật.
Điều 22. Xử
lý vi phạm
Việc xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về hôn nhân và gia đình của người dân thuộc các dân tộc được thực hiện
theo quy định của pháp luật, nhưng có xem xét đến ảnh hưởng và tác động của các
phong tục, tập quán để vận dụng cho phù hợp.
Chương 7:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 23.
Trách nhiệm của Ủy ban Dân tộc và Miền núi
1. Chủ trì, phối hợp với Bộ Tư
pháp, Bộ Văn hoá - Thông tin có trách nhiệm giúp Chính phủ chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra việc triển khai thực hiện Nghị định này.
2. Chủ trì, phối hợp với Bộ Tư
pháp, Bộ Văn hoá - Thông tin tổ chức biên soạn sách, tài liệu phổ thông về các
nội dung cơ bản của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và dịch ra tiếng dân tộc
để phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân thuộc các dân tộc.
Điều 24.
Trách nhiệm của Bộ Tư pháp
1. Hướng dẫn, chỉ đạo cơ quan tư
pháp các cấp tăng cường hoạt động tư vấn pháp luật về hôn nhân và gia đình và
thực hiện các quy định của Nghị định này.
2. Đưa nội dung tuyên truyền,
giáo dục Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đối với người dân thuộc các dân tộc
vào nội dung hoạt động của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật ở Trung
ương và ở địa phương; phối hợp chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động của Hội đồng phối hợp
phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp.
Điều 25.
Trách nhiệm của Bộ Văn hoá - Thông tin
1. Chủ trì, phối hợp với Ủy ban
Dân tộc và Miền núi, Bộ Tư pháp xây dựng và thực hiện kế hoạch, biện pháp phổ
biến, giáo dục Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cho người dân thuộc các dân tộc
trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt trên phương tiện truyền
thanh của xã, làng, bản và tại các cuộc họp Già làng, Trưởng bản, các vị chức sắc
tôn giáo, để vận động người dân thuộc các dân tộc thực hiện quy định của pháp
luật, xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình.
2. Chỉ đạo các cơ quan văn hoá -
thông tin ở địa phương triển khai xây dựng làng văn hoá, xây dựng kế hoạch phổ
biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình cho người dân thuộc các dân tộc.
3. Chỉ đạo các phương tiện thông
tin đại chúng xây dựng và thực hiện các chuyên mục tuyên truyền về nội dung cơ
bản của Nghị định này; tuyên truyền về phong tục, tập quán tốt đẹp về hôn nhân
và gia đình của các dân tộc, tạo dư luận xã hội trong việc vận động từng bước
xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình.
Điều 26.
Trách nhiệm của Bộ Tài chính
1. Hướng dẫn lập dự toán kinh
phí hàng năm cho việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và
gia đình đối với người dân thuộc các dân tộc.
2. Ban hành và hướng dẫn thực hiện
chế độ thù lao, bồi dưỡng cho cán bộ trực tiếp thực hiện việc đăng ký kết hôn,
đăng ký nuôi con nuôi ở vùng sâu, vùng xa, thực hiện chế độ thù lao cho các Già
làng, Trưởng bản, các vị chức sắc tôn giáo, cán bộ xã và đoàn thể tham gia phổ
biến, giáo dục pháp luật hôn nhân và gia đình cho người dân thuộc các dân tộc.
Điều 27.
Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
1. Chỉ đạo Ban Dân tộc và Miền
núi, Sở Tư pháp, Sở Văn hoá - Thông tin chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc tỉnh và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương xây dựng và trình Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh phê duyệt:
a) Danh mục các phong tục, tập
quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình của các dân tộc được khuyến khích phát huy
tại địa phương.
b) Danh mục các phong tục, tập
quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình của các dân tộc cần vận động xoá bỏ tại địa
phương.
2. Xây dựng và trình Hội đồng
nhân dân cùng cấp phê duyệt kinh phí hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về hôn nhân và gia đình cho người dân thuộc các dân tộc và chỉ đạo Ủy
ban nhân dân các cấp thực hiện.
3. Chỉ đạo, hướng dẫn Ủy ban
nhân dân các cấp hàng năm tổ chức hội nghị Già làng, Trưởng bản, các vị chức sắc
tôn giáo để tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm công tác tuyên truyền, giáo dục
thực hiện pháp luật về hôn nhân và gia đình và vận động xoá bỏ phong tục, tập
quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình; biểu dương, khen thưởng thành tích và
nhân rộng những điển hình tốt ở địa phương.
Điều 28. Hiệu
lực thi hành
1. Nghị định này có hiệu lực thi
hành sau 15 ngày, kể từ ngày ký.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
PHỤ LỤC A
DANH MỤC PHONG TỤC, TẬP QUÁN TỐT ĐẸP VỀ
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA CÁC DÂN TỘC ĐƯỢC KHUYẾN KHÍCH PHÁT HUY QUY ĐỊNH VIỆC
ÁP DỤNG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
(Ban hành kèm theo Nghị định số 32 /2002/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm
2002 của Chính phủ)
1. Chế độ hôn nhân một vợ, một
chồng - hình thái hôn nhân cơ bản của hầu hết các dân tộc được pháp luật bảo vệ
và khuyến khích phát huy.
2. Nam, nữ tự do tìm hiểu, tự do
lựa chọn người bạn đời.
3. Sau khi kết hôn, tuỳ theo sự
sắp xếp, thoả thuận giữa hai bên gia đình, vợ, chồng có thể cư trú ở nhà vợ hoặc
ở nhà chồng (tục đổi sữa mẹ).
4. Cha, mẹ có trách nhiệm nuôi
dưỡng, giáo dục con nên người, có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con gây
ra.
5. Con có nghĩa vụ nghe lời, phụng
dưỡng ông, bà, cha, mẹ khi về già. Trong gia đình và xã hội, sinh hoạt có tôn
ty, trật tự (có trên có dưới), các con được đối xử bình đẳng như nhau, không
phân biệt đối xử giữa con gái và con trai, giữa con đẻ và con nuôi.
6. Phong tục cho phép được nhận
người khác làm con nuôi hoặc làm con nuôi người khác mà không phân biệt họ
hàng, dân tộc. Người nhận nuôi con nuôi phải là người có vợ hoặc có chồng. Người
được nhận làm con nuôi phải là trẻ em không có nơi nương tựa và không tự nuôi sống
được bản thân.
7. Phong tục, tập quán nhận trẻ
em mồ côi cha, mẹ làm con nuôi, chăm sóc con nuôi, coi con nuôi như con đẻ, con
nuôi và con đẻ coi nhau như anh, em ruột thịt, con nuôi được hưởng các quyền
như con đẻ.
8. Phong tục, tập quán chấp nhận
hôn nhân giữa người thuộc dân tộc mình với người thuộc dân tộc khác.
9. Vợ, chồng bình đẳng với nhau
trong việc nuôi dạy con, có sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau. Các bậc cha, mẹ dạy
dỗ, chỉ bảo con bằng những lời nói dịu dàng, giáo dục con tinh thần lao động cần
cù, tạo cho con có ý thức lao động và tự lập. Người phụ nữ có vai trò quan trọng
trong gia đình, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không có sự cách biệt.
10. Quan hệ hôn nhân và gia đình
bền vững.
PHỤ LỤC B
DANH MỤC PHONG TỤC, TẬP QUÁN LẠC HẬU VỀ
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA CÁC DÂN TỘC BỊ NGHIÊM CẤM ÁP DỤNG HOẶC CẦN VẬN ĐỘNG
XOÁ BỎ QUY ĐỊNH VIỆC ÁP DỤNG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 ĐỐI VỚI CÁC DÂN
TỘC THIỂU SỐ
(Ban hành kèm theo Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27 tháng 3
năm 2002 của Chính phủ)
I- CÁC PHONG TỤC, TẬP QUÁN LẠC
HẬU VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CẦN VẬN ĐỘNG XOÁ BỎ
1. Kết hôn trước tuổi quy định của
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (tảo hôn).
2. Việc đăng ký kết hôn không do
Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện.
3. Cưỡng ép kết hôn do xem
"lá số" và do mê tín, dị đoan; cản trở hôn nhân do khác dân tộc và
tôn giáo.
4. Cấm kết hôn giữa những người
có họ trong phạm vi từ bốn đời trở lên.
5. Nếu nhà trai không có tiền cưới
và đồ sính lễ, thì sau khi kết hôn, người con rể buộc phải ở rể để trả công cho
bố, mẹ vợ.
6. Quan hệ gia đình theo chế độ
phụ hệ hoặc mẫu hệ, không bảo đảm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con
trai và con gái.
a) Chế độ phụ hệ:
Khi ly hôn, nếu do người vợ yêu
cầu ly hôn, thì nhà gái phải trả lại nhà trai toàn bộ đồ sính lễ và những phí tổn
khác; nếu do người chồng yêu cầu ly hôn, thì nhà gái vẫn phải trả lại nhà trai
một nửa đồ sính lễ. Sau khi ly hôn, nếu người phụ nữ kết hôn với người khác thì
không được hưởng và mang đi bất cứ tài sản gì. Sau khi ly hôn, con phải theo bố.
Khi người chồng chết, người vợ
goá không có quyền hưởng phần di sản của người chồng quá cố để lại. Nếu người vợ
goá tái hôn với người khác thì không được hưởng và mang đi bất cứ tài sản gì.
Khi người cha chết, chỉ các con
trai có quyền còn các con gái không có quyền hưởng phần di sản của người cha
quá cố để lại.
b) Chế độ mẫu hệ:
Người con bị bắt buộc phải mang
họ của người mẹ.
Khi người vợ chết, người chồng
goá không có quyền hưởng phần di sản của người vợ quá cố để lại và không được
mang tài sản riêng của mình về nhà.
Khi người mẹ chết, chỉ các con
gái có quyền còn các con trai không có quyền hưởng phần di sản của người mẹ quá
cố để lại.
Sau khi ở rể, người con rể bị
"từ hôn" hoặc sau khi ăn hỏi, nhận đồ sính lễ, người con trai bị
"từ hôn" thì không được bù trả lại.
7. Không kết hôn giữa người thuộc
dân tộc này với người thuộc dân tộc khác và giữa những người khác tôn giáo.
II- CÁC PHONG TỤC, TẬP QUÁN LẠC
HẬU, TRÁI VỚI QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, BỊ NGHIÊM CẤM ÁP DỤNG
1. Chế độ hôn nhân đa thê.
2. Kết hôn giữa những người có
cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có liên quan dòng họ trong phạm vi
ba đời.
3. Tục cướp vợ để cưỡng ép người
phụ nữ làm vợ.
4. Thách cưới cao mang tính chất
gả bán (như đòi bạc trắng, tiền mặt, của hồi môn, trâu, bò, chiêng ché... để dẫn
cưới).
5. Phong tục "nối
dây": Khi người chồng chết, người vợ goá bị ép buộc kết hôn với anh trai
hoặc em trai của người chồng quá cố (Levirat); khi người vợ chết, người chồng
goá bị ép buộc kết hôn với chị gái hoặc em gái của vợ quá cố (Sororat).
6. Bắt buộc người phụ nữ góa chồng
hoặc người đàn ông goá vợ, nếu kết hôn với người khác, thì phải trả lại tiền cưới
cho nhà chồng cũ hoặc nhà vợ cũ.
7. Đòi lại của cải, phạt vạ khi
vợ, chồng ly hôn.