|
Statistics
- Documents in English (15411)
- Official Dispatches (1337)
|
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ******** |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ******** |
Số: 12/1999/CT-TTg |
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 1999 |
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC TỔNG KẾT THỰC HIỆN LUẬT DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Luật Doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 4 năm 1995 là cơ sở pháp lý cho tổ chức, hoạt động và đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước, đã tạo điều kiện nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do môi trường kinh doanh và điều kiện hoạt động của doanh nghiệp nhà nước có nhiều thay đổi nên một số quy định của Luật Doanh nghiệp nhà nước không còn phù hợp với cuộc sống. Bên cạnh đó, một số vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn chưa được điều chỉnh trong Luật Doanh nghiệp nhà nước, gây trở ngại cho hoạt động của doanh nghiệp và đổi mới khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Để có thêm thông tin phục vụ việc nghiên cứu soạn thảo Luật Doanh nghiệp nhà nước (sửa đổi) theo định hướng đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII); đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; khắc phục những hạn chế và tồn tại của Luật hiện hành; đồng thời, tăng cường hơn nữa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 tiến hành tổng kết, đánh giá những việc làm được và chưa làm được, xác định rõ nguyên nhân; kiến nghị những nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới trong Luật Doanh nghiệp nhà nước; trong đó, tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
1. Quy định về cách phân loại và tiêu chí xác định doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích; quyền và nghĩa vụ của các loại doanh nghiệp nhà nước nêu trên.
2. Quyền hạn và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; việc phân cấp thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước giữa các cơ quan đại diện sở hữu, ủy quyền đại diện chủ sở hữu cho các cơ quan nhà nước; sự phối hợp giữa các cơ quan được giao quyền đại diện sở hữu nhà nước; quyền hạn và trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý ngành, lĩnh vực, ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính, sự phối hợp giữa các cơ quan này trong việc quản lý doanh nghiệp nhà nước.
3. Mô hình Tổng công ty.
Mô hình Tổng công ty 91 và Tổng công ty 90; tính chất liên kết của các đơn vị thành viên; quan hệ giữa Tổng công ty và doanh nghiệp thành viên; phân cấp quản lý trong Tổng công ty; quan hệ giữa Tổng công ty với các cơ quan quản lý nhà nước.
4. Mô hình Hội đồng quản trị.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc doanh nghiệp. Quan hệ giữa Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc.
Số lượng doanh nghiệp nhà nước đã thành lập Hội đồng quản trị, số lượng thành viên Hội đồng quản trị (bình quân, cao nhất, thấp nhất), cơ cấu thành phần, tiêu chuẩn và chế độ làm việc của Hội đồng quản trị.
5. Cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước.
Quy định về việc quản lý và sử dụng vốn và tài sản nhà nước giao cho doanh nghiệp; quản lý doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động kinh doanh; phân phối lợi nhuận; chế độ kế toán, thống kê; chế độ công khai báo cáo tài chính hàng năm... đối với từng loại hình doanh nghiệp nhà nước (doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp hoạt động công ích, Tổng công ty 91, Tổng công ty 90 và doanh nghiệp thành viên).
6. Quản lý phần vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp khác.
Tình hình huy động, quản lý và sử dụng phần vốn góp từ bên ngoài vào doanh nghiệp nhà nước và quản lý phần vốn góp của doanh nghiệp nhà nước vào các doanh nghiệp khác (số lượng doanh nghiệp nhà nước thu hút vốn từ bên ngoài, số doanh nghiệp nhà nước có vốn góp ở các doanh nghiệp khác, số lượng doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước do các doanh nghiệp nhà nước góp vốn thành lập và đăng ký theo Luật Công ty, số doanh nghiệp nhà nước liên doanh với nước ngoài, tỷ lệ góp vốn, hình thức góp vốn, cơ chế quản lý phần vốn này).
Tình hình thu hút vốn của cán bộ, công nhân viên (số lượng doanh nghiệp nhà nước có thu hút vốn của cán bộ công nhân viên nhưng chưa chuyển thành công ty cổ phần, cơ chế, tổ chức quản lý).
Đánh giá các quy định và việc thực hiện chuyển đổi sở hữu ở các doanh nghiệp nhà nước; chức năng, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, của người trực tiếp quản lý phần vốn góp của nhà nước ở các doanh nghiệp khác và những tồn tại, vướng mắc cần giải quyết (đặc biệt là vấn đề mua lại, chuyển nhượng phần vốn góp, quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa).
7. Đánh giá và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách khác của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Trong quá trình tổng kết việc thực hiện Luật Doanh nghiệp nhà nước, yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 chú ý đánh giá tính đặc thù trong tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước do Bộ, ngành, địa phương, Tổng công ty quản lý; sự cần thiết phải quy định các điểm đặc thù này trong Luật Doanh nghiệp nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo thực hiện tốt Chỉ thị này; bảo đảm mục đích, yêu cầu và gửi báo cáo tổng kết về Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Văn phòng Chính phủ chậm nhất vào ngày 15 tháng 6 năm 1999.
THE PRIME
MINISTER OF GOVERNMENT
-------
|
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom – Happiness
----------
|
No: 12/1999/CT-TTg
|
Hanoi, May 10, 1999
|
DIRECTIVE ON REVIEWING THE IMPLEMENTATION OF THE LAW ON
STATE ENTERPRISES The Law on State Enterprises adopted by the
National Assembly on April 20, 1995, is the legal basis for the organization,
operations and renovation of the of State enterprises. It has created
conditions to increase the autonomy, the self-assumption of responsibility of
the enterprises and the efficiency of the State management over State
enterprises. However, in recent years, in view of many changes in the business
environment and the conditions for the operations of State enterprises, a
number of regulations of the Law on State Enterprises no longer conform with
realities of life. Moreover, a number of questions newly arising in practice
have not been regulated by the Law on State Enterprises thus creating
hindrances to the operations of the enterprises and to renewal in the State
enterprises sector. In order to supply more information in service
of the study to draft the Law on State Enterprises (amended) in the direction
of renewing the management of State Enterprises as set out in the Resolution of
the 4th Plenum of the Central Committee of the Party (VIIIth Congress); to meet
the needs of socio-economic development of the country; to overcome the
limitations and shortcomings of the existing Law; at the same time, to further
strengthen the autonomy and self assumption of responsibility of the
enterprises and the efficiency of the State management over State enterprises,
the Prime Minister requests the ministers, the heads of the ministerial-level
agencies, the heads of the agencies attached to the Government, the Presidents
of the People’s Committees of the
provinces and centrally-run cities and the Managerial Board of Corporations 91
to conduct reviews in order to evaluate what has been achieved and what is not
yet achieved, to determine clearly the causes, and to suggest the contents that
need to be amended or supplemented or to propose new regulations in the Law on
State Enterprises. These suggestions should be concentrated on the following
main contents: 1. To determine the method of differentiation
and the norms to determine what is a State enterprise engaged in business
activities and what is a State enterprise engaged in public utility activities;
and the rights and obligations of these types of State enterprises. 2. The powers and responsibilities of the State
owners over State enterprises; the allocation of powers in the realization of
the ownership right of the State among the agencies representing the ownership,
agencies empowered to represent ownership of the State agencies; the
coordination among the agencies entrusted with the right to represent the State
ownership; the powers and responsibilities of the ministries, the
ministerial-level agencies, the agencies attached to the Government managing
branches and domains, the People’s
Committees of provincial level and the Ministry of Finance, the coordination
between these agencies in the management of State enterprises. 3. The models of Corporations. The models of Corporations 91 and Corporations
90; the cohesion of the member units; the relations between the Corporation and
the member enterprises; the allocation of managerial responsibilities within
the Corporation; the relations between the Corporation and the State managerial
agencies. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. Functions, tasks, powers and responsibilities of
the Managing Board, the Chairman of the Managing Board, the General Director,
the enterprise Director, the relations between the Managing Board and the
General Director. The number of State enterprises where the
Managing Boards have been set up, the number of members of the Managing Board
(average, highest and lowest), structure of composition, criteria and working
regime of the Managing Board. 5. The mechanism of financial management in a
State enterprise. Regulations on the management and use of capital
and properties assigned by the State to the enterprises; the management of
turnover, expenditures and results of the business activities; distribution of
profits; the regime of accountancy and statistics; the regime of publicity of
the annual financial reports for each type of State enterprises (enterprises
engaged in business operations, enterprises operating in public utility,
Corporations 91, Corporations 90 and member enterprises). 6. Management of the State capital at other
enterprises. The situation concerning the mobilization,
management and use of capital contributed by outside to the State enterprises
and management of the capital contributed by the State enterprises to other
enterprises (number of State enterprises drawing capital from outside, number of
State enterprises having capital contributed to other enterprises, number of
enterprises with 100% State capital set up by State enterprises pooling capital
and registering according to the Corporate Law, number of State enterprises
entering into joint ventures with foreign parties, the rate of capital
contribution, form of capital contribution and mechanism of management of this
part of capital). The situation of drawing capital contributed by
officials and public employees (number of State enterprises with capital
contributed by officials and public employees but not yet transformed into
stock companies, the mechanism and organization of management). Evaluation of the regulations and the
realization of the transformation of ownership at the State enterprises;
functions, rights and obligations of the Managing Board, the General Director
or Director, the person directly managing the capital contributed by the State
at other enterprises, and the unsettled questions and sticking points that need
settlement (especially the question of repurchase, assignment of the
contributed capital, management of the State capital at the equitized State
enterprises). 7. Evaluation and suggestion for amendments and
supplements to other mechanisms and policies of the State toward State
enterprises. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. The Prime Minister requests the ministers, the
heads of ministerial-level agencies, the heads of the agencies attached to the
Government, the Presidents of the People’s
Committees of the provinces and centrally-run cities, the Managing Board of
Corporations 91 to organize and direct the good implementation of this
Directive, and ensure the objective and requirements and send the reviewing
report to the Ministry of Planning and Investment and the Office of the
Government at the latest on June 15, 1999. THE PRIME MINISTER OF
GOVERNMENT
Ngo Xuan Loc
Directive No. 12/1999/CT-TTg of May 10, 1999, on reviewing the implementation of the law on state enterprises
Official number:
|
12/1999/CT-TTg
|
|
Legislation Type:
|
Directive
|
Organization:
|
The Prime Minister of Government
|
|
Signer:
|
Ngo Xuan Loc
|
Issued Date:
|
10/05/1999
|
|
Effective Date:
|
Premium
|
Gazette dated:
|
Updating
|
|
Gazette number:
|
Updating
|
|
Effect:
|
Premium
|
Directive No. 12/1999/CT-TTg of May 10, 1999, on reviewing the implementation of the law on state enterprises
|
|
|
Address:
|
17 Nguyen Gia Thieu street, Ward Vo Thi Sau, District 3, Ho Chi Minh City, Vietnam.
|
Phone:
|
(+84)28 3930 3279 (06 lines)
|
Email:
|
inf[email protected]
|
|
|
NOTICE
Storage and Use of Customer Information
Dear valued members,
Decree No. 13/2023/NĐ-CP on Personal Data Protection (effective from July 1st 2023) requires us to obtain your consent to the collection, storage and use of personal information provided by members during the process of registration and use of products and services of THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
To continue using our services, please confirm your acceptance of THƯ VIỆN PHÁP LUẬT's storage and use of the information that you have provided and will provided.
Pursuant to Decree No. 13/2023/NĐ-CP, we has updated our Personal Data Protection Regulation and Agreement below.
Sincerely,
I have read and agree to the Personal Data Protection Regulation and Agreement
Continue
|
|