Bổ sung cơ chế hoàn thuế cho người đã chết (Hình từ Internet)
Tại Tờ trình kèm theo Công văn 2811/BTC-CT về xây dựng Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế, đối với nội dung chính sách hoàn thiện quy định về hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, Bộ Tài chính đề nghị bổ sung cơ chế hoàn thuế cho người đã chết. Cụ thể nội dung chính sách như sau:
- Nghiên cứu sửa đổi Chương trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế theo hướng sửa lại thành “hoàn thành nghĩa vụ thuế” đảm bảo nguyên tắc thu đúng, thu đủ tiền thuế vào ngân sách nhà nước.
- Hoàn thiện các quy định về việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong các trưởng hợp: giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động; tổ chức lại doanh nghiệp; người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi (Điều 67. Điều 68, Điều 69 Luật Quản lý thuế).
- Nghiên cứu bổ sung quy định khoản 3 Điều 70 Luật Quản lý thuế về trường hợp hoàn thuế đối với cá nhân là người đã chết, người bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì người được thừa kế, người giám hộ theo quy định của pháp luật dân sự được làm thủ tục để nhận phần thuế được hoàn theo quy định của pháp luật dân sự.
Điều 70 Luật Quản lý thuế quy định về các trường hợp hoàn thuế như sau:
“Điều 70. Các trường hợp hoàn thuế
1. Cơ quan quản lý thuế thực hiện hoàn thuế đối với tổ chức, cá nhân thuộc trường hợp hoàn thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
2. Cơ quan thuế hoàn trả tiền nộp thừa đối với trường hợp người nộp thuế có số tiền đã nộp ngân sách nhà nước lớn hơn số phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 60 của Luật này”.
- Nghiên cứu sửa đổi khoản 1 Điều 77 Luật Quản lý thuế theo hướng cơ quan thuế thực hiện thanh tra, kiểm tra theo nguyên tắc rủi ro đối với hồ sơ thuộc diện hoàn thuế trước trong thời hạn 5 năm kể từ ngày ban hành quyết định hoàn thuế. Việc lựa chọn hồ sơ hoàn thuế trước có rủi ro để tiến hành TTKT phù hợp với nguyên tắc.
Theo Điều 69 Luật Quản lý thuế, quy định về hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp người nộp thuế là người đã chết, người bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự có nội dung cụ thể như sau:
(1) Việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của người đã chết, người bị Tòa án tuyên bố là đã chết do người được thừa kế thực hiện trong phần tài sản của người đã chết, người bị Tòa án tuyên bố là đã chết để lại hoặc phần tài sản người thừa kế được chia tại thời điểm nhận thừa kế. Trong trường hợp không có người thừa kế hoặc tất cả những người thừa kế từ chối nhận di sản thừa kế thì việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của người đã chết, người bị Tòa án tuyên bố là đã chết thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.
(2) Việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của người bị Tòa án tuyên bố mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự do người quản lý tài sản của người mất tích hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện trong phần tài sản của người đó.
(3) Trường hợp Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì số nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã xóa theo quy định được phục hồi lại, nhưng không bị tính tiền chậm nộp cho thời gian bị tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
Xem thêm tại Luật Quản lý thuế 2019.
Lê Quang Nhật Minh