Đề xuất sửa thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt khi xây dựng Luật Quản lý thuế mới thay thế Luật Quản lý thuế 2019?

Đề xuất thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt theo Đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế mới thay thế Luật Quản lý thuế 2019?

Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế thay thế Luật Quản lý thuế 2019?

Bộ Tài chính trình Chính phủ đề nghị xây dựng dự án Luật Quản lý thuế (thay thế)

Tải Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế thay thế Luật Quản lý thuế 2019 tại đây: tải

Theo đó, việc xây dựng luật quản lý thuế (thay thế) nhằm mục đích:

(1) Đẩy mạnh việc chuyển đổi số và hiện đại hóa việc quản lý thu thuế, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp;

(2) Đổi mới toàn diện hoạt động quản lý thuế theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, công tác quản lý thuể thống nhất, công khai, minh bạch dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thức đơn giản, khoa học phủ hợp với thông lệ quốc tế;

(3) Khắc phục các bất cập của Luật Quản lý Thuế; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các pháp luật liên quan;

(4) Sửa đổi, bổ sung những quy định nhằm góp phần phục vụ chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước đã đề ra; phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về thuế và chuẩn bị cơ sở pháp luật để phục vụ hội nhập trong giai đoạn tới;

(5) Đổi mới các nội dung và các điều luật theo hướng gia tăng các quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính; cải cách thủ tục quản lý thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, công khai, thuận tiện, thống nhất, đảm bảo phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thực hiện quản lý thuế điện tử, tạo môi trường thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ pháp luật về thuế, tự giác nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào Ngân sách Nhà nước;

(6) Nâng cao năng lực và hiệu quả của hoạt động quản lý thuế để phòng, chống trốn thuể, thất thu và nợ thuế; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan với cơ quan thuế trong việc thực hiện pháp luật về thuế và quản lý thuế.

Đề xuất sửa đổi thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt?

Tại Tờ trình kèm theo Công văn 2811/BTC-CT về xây dựng Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế, đối với nội dung chính sách sửa đổi quy định về không thu thuế, miễn thuế, giảm thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt cho phù hợp với thực tế và quy định mới của pháp luật có liên quan, Bộ Tài chính định hướng sửa đổi, bổ sung như sau:

- Nghiên cứu sửa đổi thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Tổng cục trường Tổng cục Hải quan, Bộ trưởng Bộ Tài chính tại khoản 2, khoản 3 và khoản 5 Điều 87 do tác động của việc sắp xếp tổ chức bộ máy.

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 87 quy định Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định xóa nợ đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 85 của Luật này có khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt từ 10.000.000.000 đồng trở lên; bỏ quy định khoản 4 Điều 87 phù hợp với định hướng của Chính phủ.

Đề xuất thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt theo Đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế mới thay thế Luật Quản lý thuế 2019?

Đề xuất thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt theo Đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế mới thay thế Luật Quản lý thuế 2019? (Hình từ Internet)

Lí do lựa chọn giải pháp sửa đổi quy định về không thu thuế, miễn thuế, giảm thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt cho phù hợp với thực tế?

Tại Tờ trình kèm theo Công văn 2811/BTC-CT về xây dựng Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế, đối với nội dung chính sách sửa đổi quy định về không thu thuế, miễn thuế, giảm thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt cho phù hợp với thực tế và quy định mới của pháp luật có liên quan, Bộ Tài chính nêu lí do lựa chọn giải pháp như sau:

- Về công tác quản lý nợ, hiện nay mới chỉ có quy định trường hợp người nộp thuế là chủ doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH một thành viên đã được khoanh nợ và nếu cơ quan thuế phát hiện người nộp thuế đó thành lập doanh nghiệp khác thì cơ quan thuế chấm dứt hiệu lực của quyết định khoanh tiền thuế nợ và thực hiện tính lại tiền chậm nộp.

Tuy nhiên, đối với trường hợp công ty cổ phần, công ty TNHH nhiều thành viên chưa có quy định cụ thể. Thực tế có trường hợp người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, ra ngoài thành lập thêm nhiều doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh chưa có quy định rõ ràng để kiểm soát việc thành lập doanh nghiệp mới của người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký.

- Để nghị có sự hướng dẫn thống nhất các nội dung trong Luật Quản lý thuế có liên quan đến Luật Phá sản để cơ quan Thuế và các cơ quan khác có liên quan (Tòa án, Thi hành án) thuận lợi trong quá trình xử lý hồ sơ có các nội dung phải phối hợp xử lý.

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 87 quy định Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định xóa nợ đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 85 của Luật này có khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt từ 10.000.000.000 đồng trở lên; bỏ quy định khoản 4 Điều 87 phù hợp với định hướng của Chính phủ.

Điều 87 Luật quản lý thuế chưa có quy định về việc sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định xóa nợ do việc ban hành không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc do người nộp thuế sau khi được xóa nợ lại tiếp tục quay lại hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung quy định về sửa đổi, bố sung, hủy quyết định xóa nợ để đảm bảo căn cứ pháp lý trong quá trình thực hiện.

Ai có thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt hiện hành?

Căn cứ Điều 87 Luật Quản lý Thuế 2019 quy định về thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt như sau:

Thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với các trường hợp sau đây:
a) Trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 85 của Luật này;
b) Hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cá nhân quy định tại khoản 3 Điều 85 của Luật này;
c) Doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 85 của Luật này có khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt dưới 5.000.000.000 đồng.
2. Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quyết định xóa nợ đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 85 của Luật này có khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt từ 5.000.000.000 đồng đến dưới 10.000.000.000 đồng.
3. Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định xóa nợ đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 85 của Luật này có khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt từ 10.000.000.000 đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng.
4. Thủ tướng Chính phủ quyết định xóa nợ đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 85 của Luật này có khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt từ 15.000.000.000 đồng trở lên.
5. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo tình hình kết quả xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt cho Hội đồng nhân dân cùng cấp vào kỳ họp đầu năm. Bộ trưởng Bộ Tài chính tổng hợp tình hình xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt để Chính phủ báo cáo Quốc hội khi quyết toán ngân sách nhà nước.

Như vậy, theo quy định hiện nay, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Thủ tướng Chính phủ là những người có thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt thuế.

Thẩm quyền xóa nợ tiền thuế
Căn cứ pháp lý
MỚI NHẤT
Pháp luật
Đề xuất sửa thẩm quyền xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt khi xây dựng Luật Quản lý thuế mới thay thế Luật Quản lý thuế 2019?
Vũ Phạm Nhật Nam
13
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch