Hết thời hiệu có khởi kiện vụ án tranh chấp dân sự được không?
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, một trong những vấn đề pháp lý quan trọng cần lưu ý là thời hiệu khởi kiện. Câu hỏi đặt ra là liệu hết thời hiệu có khởi kiện vụ án tranh chấp dân sự được không? Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác theo khoản 1 Điều 154 BLDS năm 2015 Thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu. (1) Hết thời hiệu có khởi kiện vụ án tranh chấp dân sự được không? Các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự theo Điều 185 BLTTDS năm 2015. Căn cứ Điều 150 BLDS năm 2015 quy định về các loại khởi kiện như sau: - Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự. - Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện nghĩa vụ. - Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. - Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu. Tuy nhiên, theo Điều 149 BLDS năm 2015 quy định về thời hiệu như sau: - Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Thời hiệu được áp dụng theo quy định của BLDS năm 2015, luật khác có liên quan. - Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc. - Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Như vậy, khi thời hạn khởi kiện kết thúc thì sẽ mất quyền khởi kiện khi trong trường hợp Tòa án chỉ được áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc. (2) Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự Theo Điều 156 BLDS năm 2015 đề cập đến 03 trường hợp không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án, bao gồm: Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây: - Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình. - Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. - Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây: + Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân. + Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được. (3) Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp được quy định tại Điều 157 BLDS năm 2015: - Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện. - Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện. - Các bên đã tự hòa giải với nhau. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện quy định tại khoản 1 Điều 157 Tóm lại, khi thời hạn khởi kiện kết thúc thì sẽ mất quyền khởi kiện khi trong trường hợp Tòa án chỉ được áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc. Ngoài ra trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật, có thể bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Bên cạnh đó, các bên cần lưu ý đến 03 tình huống, sự việc, thời gian sẽ không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.
Vụ nợ tín dụng 8,8 tỷ của Eximbank, liệu ngân hàng còn thời hiệu khởi kiện?
Vừa qua đã xảy ra vụ việc một khách hàng của Eximbank, từ 8,5 triệu sau 11 năm phát sinh dư nợ tín dụng 8,8 tỷ đồng. Việc khoản nợ bị kéo dài như vậy, liệu thời hiệu khởi kiện của ngân hàng có còn hay không? quy định pháp luật về vấn đề này như thế nào? Thời hiệu khởi kiện theo quy định pháp luật Thời hiệu khởi kiện theo Khoản 3 Điều 150 BLDS 2015 là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Theo Khoản 1 Điều 154 BLDS 2015, Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Về thời hiệu khởi kiện về hợp đồng, được quy định tại Điều 429 BLDS 2020 như sau: Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại, được quy định tại Điều 588 BLDS 2015 như sau: Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều 156 BLDS như sau: - Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây: + Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu. + Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. + Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình; - Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; - Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây: + Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân; + Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được. Ngân hàng Eximbank có còn thời hiệu khởi kiện khách hàng không? Vì đây là tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tín dụng nên khi ngân hàng Eximbank kiện khách hàng sẽ áp dụng thời hiệu khởi kiện về hợp đồng, tức là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Vì vậy, vấn đề thời hiệu này phải xem xét thời hạn hai bên hẹn thanh toán khoản nợ tín dụng là khi nào, từ ngày hết hạn thanh toán đó đến nay đã quá 03 năm chưa. Nếu đã quá thời hạn trả 03 năm mà người vay không trả nợ, bên cho vay không nhắc nợ, không khởi kiện đến Tòa án để được xem xét giải quyết trong thời hạn này, đến nay đã hết thời hiệu khởi kiện, ngân hàng có khởi kiện có thể tòa án cũng không giải quyết. Đồng thời, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước cần vào cuộc để xác minh làm rõ cách tính lãi suất của Ngân hàng Eximbank và rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật quy định về lãi suất cho vay, lãi suất thẻ tín dụng đối với người khách hàng này có đúng với Pháp luật hay không bởi con số từ 8,5 triệu đồng sau 11 năm lên đến 8,8 tỷ đồng là một con số mà không ai có thể hình dung được. Trường hợp việc tính lãi như trên là đúng pháp luật, Tòa án sẽ chấp nhận yêu cầu khởi kiện dù khách hàng không đồng ý trả vì tự nhận thấy rằng việc tính lãi suất này không phù hợp. Đương nhiên, với điều kiện là phải còn trong thời hiệu khởi kiện 03 năm. Đồng thời, khách hàng cũng có thể bị khởi tố hình sự nếu gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc có điều kiện trả nợ nhưng cố tình không trả nợ hoặc sử dụng tài sản vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả nợ, khi đó sẽ xử lý về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự. Trên đây là thông tin về thời hiệu khởi kiện vụ 8,8 tỷ của Eximbank. Thông qua sự việc trên, những khách hàng khi vay tín dụng cần hết sức chú ý về nghĩa vụ thanh toán nợ cũng như lãi suất của ngân hàng, tránh trường hợp số nợ vượt tầm kiểm soát như tình huống vừa qua. Xem thêm: Cách tính lãi của thẻ tín dụng? Có những lưu ý nào cần phải biết? Thẻ ngân hàng không dùng nữa có bị tính phí không?
Khó xử: Lỗi do học sinh, phụ huynh hay nhà trường phải bồi thường?
Trong thời gian học tại cơ sở phổ thông, không ít trường hợp học sinh gây thiệt hại khi còn đang đi học và được sự quản lý trực tiếp của nhà trường và sự giáo dục, quản lý của gia đình. Khi đó, vấn đề trách nhiệm bồi thường được đặt lên bàn cân rằng phụ huynh của học sinh sẽ là người trực tiếp bồi thường thiệt hại hay trách nhiệm đó sẽ thuộc về phía nhà trường? 1. Trách nhiệm bồi thường là của ai? Hiện nay, học sinh tại Việt Nam được chia theo 3 bậc phổ thông với độ tuổi trung bình khác nhau. Tuy nhiên, khi thực hiện bồi thường thì căn cứ theo Bộ luật Dân sự 2015 phân biệt đối tượng thực hiện bồi thường gồm người dưới 15 tuổi và từ đủ 15 tuổi đến đủ 18 tuổi. 1.1 Bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi gây ra Cụ thể tại Điều 599 Bộ luật Dân sự 2015 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì: Người chưa đủ 15 tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên, trường học không phải bồi thường nếu chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý. Trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của người dưới 15 tuổi, người phải bồi thường. Đồng thời, theo Điều 11 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP có giải thích về bồi thường thiệt hại do người chưa đủ 15 tuổi gây ra trong thời gian trường học, trực tiếp quản lý như sau: Thời gian trường học trực tiếp quản lý là trong phạm vi thời gian và không gian mà trường học đã tiếp nhận và có trách nhiệm quản lý, chăm sóc, dạy dỗ người chưa đủ 15 tuổi. Do đó, nếu thuộc phạm vi này thì nhà trường có trách nhiệm bồi thường. Trường hợp nhà trường chứng minh được thiệt hại do học sinh gây ra không thuộc phạm vi quản lý thì trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về phụ huynh học sinh. 1.2 Bồi thường thiệt hại do người từ 15 đến 18 tuổi trở lên gây ra Người chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại căn cứ khoản 2 Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: Nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. 2. Thời hiệu khởi kiện quyền lợi bị xâm hại Trong trường hợp phía nhà trường và phụ huynh không thể thỏa thuận để dẫn đến kết quả cuối cùng thì có thể đưa ra Tòa án xét xử. Tuy nhiên, cũng cần chú ý về thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp này. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện Theo đó, tại Điều 154 Bộ luật Dân sự 2015 bắt đầu thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự như sau: - Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. - Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Ngoài ra, Điều 5 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP cũng lý giải về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 588 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trước hoặc sau ngày 01/01/2017 (ngày Bộ luật Dân sự có hiệu lực) và đương sự khởi kiện từ ngày 01/01/2017, thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại đều là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Thời điểm người có quyền yêu cầu biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm là khi họ nhận ra được hoặc có thể khẳng định được về việc quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Trường hợp người có quyền yêu cầu phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm là trong điều kiện, hoàn cảnh bình thường, nếu có thiệt hại xảy ra thì người đó biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc trường hợp pháp luật có quy định phải biết. Như vậy, trường hợp mà học sinh gây nên thiệt hại còn tùy thuộc vào phạm vi thuộc quản lý của nhà trường hay không, nếu học sinh dưới 15 tuổi mà trong phạm vi của nhà trường thì nhà trường có trách nhiệm bồi thường, ngược lại sẽ do phụ huynh học sinh chịu trách nhiệm. Trường hợp học sinh đó trên 15 đến 18 tuổi thì phải tự chịu trách nhiệm chính.
Không phải muốn kiện là kiện, mà phải có quyền khởi kiện
Một vụ án không thể nào quên. Vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, có liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Về mặt nội dung thì phức tạp, vì liên quan đến pháp luật về hàng hải của quốc gia Kazakhstan, Singgapore và qui tắc Incoterm 2010. Tuy nhiên, về mặt tố tụng thì rất đơn giản. Chỉ cần nắm và hiểu rõ quy định về QUYỀN KHỞI KIỆN thì giải quyết… trong vòng một nốt nhạc. Đọc đơn khởi kiện là biết người khởi kiện không có quyền khởi kiện. Thế nhưng, vụ án kéo dài 4 năm. Ngay từ buổi hòa giải đầu tiên, tôi đã gửi đơn đề nghị Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do người khởi kiện không có quyền khởi kiện. Và sau đó, tôi tiếp tục gửi đơn hai lần nữa. Nhưng rất tiếc, thẩm phán xem xét đơn đề nghị của tôi quá muộn. Bốn năm sau, Tòa mới chấp nhận đề nghị của tôi, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do người khởi kiện không có quyền khởi kiện. Giá như Tòa án xem xét đề nghị của tôi sớm hơn thì chắc chắn các đương sự không phải mất thời gian, tốn tiền bạc để thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp sang Singgapore, Kazakhstan. Qua nhiều buổi hòa giải, gặp nhau bên ngoài trao đổi, tôi thấy người tư vấn cho bên đi kiện không hề quan tâm đến quy định về QUYỀN KHỞI KIỆN. Không phải cứ muốn kiện là kiện, mà phải có QUYỀN KHỞI KIỆN thì mới kiện được. Nếu không có QUYỀN KHỞI KIỆN mà nộp đơn kiện, thì về mặt luật, Tòa án phải trả hồ sơ; nếu Tòa án đã thụ lý thì phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Hỏi về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế với bất động sản
Dạ thưa Luật sư “tại Phần 1 Giải đáp 01/GĐ-TANDTC năm 2018 có quy định đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990”. Ông bà nội cháu đều chết trước năm 1975 đến nay đã quá 30 năm, Ba mẹ cháu đã kê khai theo Chỉ thị 299 và được cấp sổ hồng đến thời điểm hiện tại (nếu áp dụng Luật dân sự 2015 thì đã quá thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với bất động sản và các đồng thừa kế không có quyền khởi kiện), nhưng nếu áp dụng hướng dẫn như trên thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế với bất động sản lại vẫn còn, điều này có đúng không ạ?
Thời hiệu khởi kiện khi có vi phạm hợp đồng vay mượn
Tôi có một người bạn tên Phúc cùng với con là Anh Thư hỏi mượn tôi 100 triệu đồng trong thời gian 2, 3 tháng, cùng lắm là 1 năm để giải quyết việc nhà. Lãi suất bằng với lãi suất vay ngân hàng và bà Phúc hứa sẽ trả 1 lần khi xong việc. Lúc đó Anh Thư đã cho tôi số tài khoản ngân hàng và tôi đã chuyển 100 triệu đồng vào số tài khoản đó ngày 06/9/2016, trên nội dung giấy chuyển tiền tôi có ghi “cho mượn tiền”. Vì 2 bên khá thân nhau và họ là những người có tài sản, thời gian vay mượn không lâu nên mọi việc chỉ hứa miệng, không có làm biên nhận vay mượn tiền. Tuy nhiên, khi hết hạn 1 năm thì họ hẹn 2 năm, hết hạn 2 năm lại hẹn tiếp, rồi đòi chỉ trả vốn (mọi việc chỉ thực hiện lúc gặp nhau hoặc qua điện thoại). Khi tôi yêu cầu trả vốn họ cũng không trả. Vì họ có quen thân với anh ruột tôi nên ngày 23/4/2019 (cách lúc gửi tiền cho họ mượn là 2 năm 7 tháng) anh tôi có điện thoại yêu cầu bà Phúc cho một câu trả lời cho tôi biết số tiền đó giải quyết thế nào. Cuộc điện thoại lần này anh tôi có ghi âm lại. Trong băng ghi âm, anh tôi có nói là sau 2 năm tôi có nhờ anh ấy đòi tiền nhưng đến bấy giờ anh ấy mới hỏi, bà Phúc có thừa nhận mượn số tiền 100 triệu để lo việc nhà, có nói rõ số tiền 100 triệu đã gửi vào tài khoản Anh Thư và bà Phúc có nói là anh tôi biết rõ việc nhà bà Phúc chưa xong mà sao lại đòi tiền đồng thời bà Phúc hứa trả nhưng không hẹn thời gian (“sẽ trả”; “sẽ tính”). Cuộc điện thoại không có nói gì đến tiền lãi. Sau đó ít hôm, anh tôi đòi tiếp thì lần này bà Phúc không chịu trả kể cả tiền vốn. Ngày 20/5/2019, tôi gửi thư chuyển phát nhanh cho bà Phúc để đòi tiền (chỉ đòi vốn) thì họ ghi 2 chữ “TÀO LAO” vào thư rồi quăng trả lại trong nhà tôi. Trong thời gian chúng tôi có qua lại thân thiết với nhau, bà Phúc đã lén chụp ảnh anh tôi ngồi kế bên những cô bạn đi chung khác (không có hành vi nào thân mật quá mức, chỉ ngồi gần) và đến bây giờ họ thách thức rằng nếu tôi kiện ra toà thì họ sẽ đưa những tấm ảnh cho vợ và chị vợ anh ấy, còn tôi là người bao che chứa chấp anh tôi quan hệ bất chính tại nhà tôi. Chính vì thế nên anh tôi nói chỉ bỏ tiền lãi chứ không bỏ vốn, điều này trái với yêu cầu không được đòi tiền của họ. Ngày 21/9/2019, bà Phúc đã chuyển hình ảnh đó cho vợ anh tôi (qua điện thoại). Vợ anh tôi đã trả lời bà Phúc là: Nếu chồng tôi có nhiều bạn tri kỷ thì cũng là điều tốt chứ không sao cả. Mưu đồ của họ đã thất bại. Tôi muốn hỏi: - Vì đã quá thời hiệu 2 năm và tôi không có chứng cứ đòi tiền lúc hết hạn 1 năm thì bây giờ tôi chỉ có thể đòi lại tiền vốn mà thôi – không đòi được lãi, có phải như thế là đúng hay không? - Do lúc tôi chuyển tiền cho họ thì cũng không khẳng định chính xác thời gian trả và ngày 23/4/2019 (sau 2 năm 7 tháng) bà Phúc tiếp tục hẹn, sau đó là sự đe doạ thì tôi có thể dùng nó làm chứng cứ để đòi trả tiền lãi được hay không? Kính mong quý luật sư giúp đỡ, vì tôi đã bị họ chiếm dụng số tiền quá lâu nên bị thiệt hại không nhỏ. Xin chân thành cảm ơn quý luật sư!
Các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện
Khi cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm, chủ thể đó có thể tiến hành khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để giải quyết. Xong, chủ thể khởi kiện phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện, theo đó, nếu thời hạn đó kết thúc thì sẽ mất quyền khởi kiện. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp để bảo đảm quyền lợi cho bên bị xâm phạm mà pháp luật đã đưa ra quy định về không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong một số trường hợp nhất định. Theo quy định tại Điều 155 của BLDS năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây: - Thứ nhất: Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. - Thứ hai: Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. - Thứ ba: Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai. - Thứ tư: Trường hợp khác do luật quy định. Một ví dụ trong trường hợp thứ tư này đó là thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Khoản 2 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định trong trường hợp khởi kiện về tranh chấp di sản thừa kế thì thời hiệu khởi kiện là 10 năm, kể từ ngày mở thừa kế. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ sẽ không áp dụng thời hiệu, đó là các trường hợp quy định tại Tại Mục 2.4, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, cụ thể: "Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế - Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau: + Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc. + Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ. + Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung. - Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo Ủy quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản."
Vì sao vay tiền phải áp dụng thời hiệu khởi kiện?
Xem thêm: >>> Các tranh chấp dân sự không áp dụng thời hiệu khởi kiện >>> Chứng thực bản án, UBND xã có quyền? >>> Cách viết đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Vấn đề nêu trên là một nội dung gây không ít tranh cãi liên quan đến quyền sở hữu tài sản nhưng lại áp dụng thời hiệu khởi kiện. Nội dung dưới đây mình sẽ đưa ra các quy định của pháp luật cũng như quan điểm của mình về vấn đề này như sau: Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về “Không áp dụng thời hiệu khởi kiện” trong các trường hợp sau: 1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. 2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. 4. Trường hợp khác do luật quy định. Trường hợp không áp dụng thời hiệu đối với “yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu” nội dung này đã bỏ đi trường hợp “đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu” được quy định tại Điều 159, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Theo quan điểm của mình, sở dĩ bên cho vay cũng không có cơ sở để áp dụng quy định về đòi lại “quyền sở hữu tài sản” đối với tranh chấp là cho vay tiền, bởi lẽ khác với cho mượn tài sản, sau khi giao nhận tài sản vay, bên cho vay không còn “quyền sở hữu tài sản” vay, mà “bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó”, theo quy định tại Điều 464 về “Quyền sở hữu đối với tài sản vay”, Bộ luật Dân sự năm 2015. Thêm nữa, cần lưu ý phân biệt rõ vay tiền và mượn tiền. XEM TẠI ĐÂY Hiểu một cách nôm na về quyền sở hữu đối với tài sản, nếu đó là tài sản vay thì bên vay sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó. Nếu đó là tài sản mượn thì quyền sở hữu tài sản vẫn sẽ thuộc về bên cho mượn, bên mượn chỉ được sử dụng tài sản đó để nhằm đạt được mục đích nhất định của mình. Giải thích thêm, sở dĩ coi tiền là vật tiêu hao bởi vì khi hết thời hạn cho “mượn” tiền, thay vì chỉ cần thanh toán một khoản tiền tương đương thì người mượn phải hoàn trả lại theo đúng số tiền mà người cho mượn đã giao cho (chính xác từ số lượng, mệnh giá, số sê ri… của từng tờ tiền). Sở dĩ như vậy là do bên mượn phải trả lại tài sản mượn cho bên cho mượn theo quy định tại BLDS Vì vậy, nếu theo đúng các quy định trên, thì thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp đòi lại tiền cho vay nói riêng và tài sản cho vay nói chung sẽ là 3 năm . Có bạn nào có quan điểm khác mình về cách giải thích trên hay không thì chia sẻ nhé!
Các tranh chấp dân sự không áp dụng thời hiệu khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Ngoài các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 155 BLDS 2015 1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. 2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. 4. Trường hợp khác do luật quy định. Thì đối với các tranh chấp dân sự sau đây thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện: - Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản là tranh chấp ai có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó; Ví dụ: Tranh chấp ai có quyền sở hữu nhà ở; nếu có khởi kiện thì Tòa án thụ lý vụ án; việc chấp nhận hay không phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. -Tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu là tranh chấp về tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của mình nhưng do người khác quản lý, chiếm hữu tài sản đó; Ví dụ: Ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của A nhưng do B đang quản lý; A có tài liệu chứng minh ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của A và khởi kiện đòi nhà thì Tòa án thụ lý; việc chấp nhận hay không phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. - Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai là tranh chấp ai có quyền sử dụng đất đó. - Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về đòi lại tài sản, đòi lại quyền sử dụng đất do người khác quản lý, chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Ví dụ 1: Ngày 01-01-2008, A cho B vay 500 triệu đồng, thời hạn vay là 1 năm. Đến ngày 01-01-2009, B không trả tiền gốc và tiền lãi. Đến ngày 03-4-2011, A khởi kiện yêu cầu buộc B trả lại khoản tiền gốc và tiền lãi. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi thì Tòa án không giải quyết vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền gốc thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện, Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung. Ví dụ 2: Đối với tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ mà có tranh chấp về việc ai có quyền sở hữu đối với quyền sở hữu trí tuệ đó thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Nếu tranh chấp các giao dịch về quyền sở hữu trí tuệ thì áp dụng thời hiệu tương ứng đối với giao dịch quyền sở hữu trí tuệ đó. Căn cứ: Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP
Hết thời hiệu khởi kiện người cho vay có mất quyền đòi nợ?
Tham khảo: >>> Trình tự giải quyết vụ án dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015; >>> Thời gian giải quyết một vụ án dân sự tối thiểu là bao lâu?; Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và nếu thời hạn đó kết thúc thì chủ thể này mất quyền khởi kiện. Thời hiệu được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Vậy trong trường hợp người cho vay đi khởi kiện người vay nhưng hết thời hiệu khởi kiện thì như thế nào? có mất luôn quyền quyền khởi kiện không? Theo đó, tại Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì “Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự”. Theo đó, tại Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện về hợp đồng như sau: “Điều 429. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm” Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP quy định đối với Tranh chấp hợp đồng vay tài sản như sau: "b) Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về đòi lại tài sản, đòi lại quyền sử dụng đất do người khác quản lý, chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Ví dụ 1: Ngày 01-01-2008, A cho B vay 500 triệu đồng, thời hạn vay là 1 năm. Đến ngày 01-01-2009, B không trả tiền gốc và tiền lãi. Đến ngày 03-4-2011, A khởi kiện yêu cầu buộc B trả lại khoản tiền gốc và tiền lãi. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi thì Tòa án không giải quyết vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền gốc thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện, Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung." Vậy nên, theo quy định trên thì đối với tranh chấp cho vay tài sản thì khi phát hiện người vay quỵt nợ hoặc quá thời hạn ba năm thì người cho vay vẫn không mất quyền đòi nợ mà vẫn có quyền gửi đơn khởi kiện đến tòa án để yêu cầu giải quyết theo quy định.
Thời hiệu khởi kiện hợp đồng vay tài sản
Tư vấn giúp em vấn đề về thời hiệu khơi kiện hợp đồng vay tài sản là tiền ạ Cụ thể: Anh ruột của em năm 2/2016 có cho người thân là dòng họ vay số tiền là 15.000.000đ với lãi suất 1.000.000 là 50.000đ một tháng. Đến nay người vay không trả lãi lẫn nợ gốc luôn. Dù bên anh em cố đòi người vay cứ hẹn đến bây giờ vẫn chưa trả nữa ạ. Em có tìm hiểu trên trang wed thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng vay tài sản là 3 năm. Đến nay em có còn quyền khởi kiện không? Nếu còn em có đòi lại được nợ góc lẫn lãi không ạ? Khi vay anh em có làm hợp đồng cho vay và có chữ ký của người vay. Tuy nhiên anh em làm mất, anh vừa làm lại cách đây vài hôm và người vay đã ký vào hợp đồng.
[Tổng hợp] Thời hiệu khởi kiện đối với một số tranh chấp dân sự
>>> 03 trường hợp thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại >>> 03 vấn đề liên quan đến thời hiệu cần lưu ý Khái niệm thời hiệu được hiểu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Theo quy định của Bộ luật dân sự (BLDS) 2015, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 có quy định rõ về việc căn cứ áp dụng thời hiệu như sau: “Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự” (khoản 1 Điều 184). Theo đó, thời hiệu khởi kiện sẽ được thực hiện căn cứ theo quy định của BLDS 2015. Mặt khác, tại khoản 4 Điều 4 của Nghị quyết 02/2016/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán đối với việc áp dụng pháp luật về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, vụ án hành chính có quy định: “Từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”. Nội dung điều khoản trên cho thấy, việc giải quyết các tranh chấp dân sự mà có quy định riêng về thời hiệu thì chúng ta sẽ áp dụng theo luật chuyên ngành cho từng lĩnh vực cụ thể của tranh chấp đó, nếu không có sẽ áp dụng quy định chung tại BLDS. Hiện nay, vấn đề thời hiệu khởi kiện đối với mỗi lĩnh vực lại tồn tại một luật khác nhau quy định. Bài viết dưới đây mình sẽ tổng hợp về thời hiệu khởi kiện của một số tranh chấp dân sự để mọi người tiện theo dõi. STT LĨNH VỰC TRANH CHẤP THỜI HIỆU KHỞI KIỆN CĂN CỨ PHÁP LÝ 1 Tranh chấp về hợp đồng 03 năm: kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Điều 429 BLDS 2015 2 Tranh chấp thương mại 02 năm: kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 237 của Luật này. Điều 319 Luật thương mại 2005 3 Tranh chấp vận chuyển hàng không - Thời hiệu khởi kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vận chuyển đối với thiệt hại xảy ra cho hành khách, hành lý, hàng hóa là: 02 năm kể từ ngày tàu bay đến địa điểm đến, ngày tàu bay phải đến địa điểm đến hoặc từ ngày việc vận chuyển bị chấm dứt, tùy thuộc vào thời điểm nào muộn nhất. - Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với người thứ ba ở mặt đất là: 02 năm, kể từ ngày phát sinh sự kiện gây thiệt hại. - Thời hiệu khởi kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vận chuyển đối với thiệt hại xảy ra cho hành khách, hành lý, hàng hóa là: 02 năm, kể từ ngày tàu bay đến địa điểm đến, ngày tàu bay phải đến địa điểm đến hoặc từ ngày việc vận chuyển bị chấm dứt, tùy thuộc vào thời điểm nào muộn nhất. Điều 174, 186 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 4 Tranh chấp về khám bệnh, chữa bệnh 05 năm: kể từ khi sự việc xảy ra. Khoản 3 Điều 80 Luật Khám chữa bệnh 2009 5 Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm 03 năm: kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp. Điều 30 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010 6 Tranh chấp về giao dịch các công cụ chuyển nhượng - Người thụ hưởng có quyền khởi kiện người ký phát, người phát hành, người bảo lãnh, người chuyển nhượng, người chấp nhận yêu cầu thanh toán số tiền quy định tại Điều 52 của Luật này trong thời hạn: ba năm, kể từ ngày công cụ chuyển nhượng bị từ chối chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán. - Người có liên quan bị khởi kiện theo quy định tại Điều 76 của Luật này có quyền khởi kiện người ký phát, người phát hành, người chuyển nhượng trước mình, người bảo lãnh, người chấp nhận về số tiền quy định tại Điều 52 của Luật này trong thời hạn: hai năm, kể từ ngày người có liên quan này hoàn thành nghĩa vụ thanh toán công cụ chuyển nhượng. - Trường hợp người thụ hưởng không xuất trình công cụ chuyển nhượng để thanh toán đúng hạn theo quy định tại Điều 43 và Điều 69 của Luật này hoặc không gửi thông báo về việc công cụ chuyển nhượng bị từ chối chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán trong thời hạn quy định tại Điều 50 của Luật này thì chỉ có quyền khởi kiện người chấp nhận, người phát hành, người ký phát, người bảo lãnh cho người bị ký phát trong thời hạn hai năm, kể từ ngày ký phát công cụ chuyển nhượng. Điều 78 Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005 7 Tranh chấp lao động - Thời hiệu yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 01 năm, kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. - Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. Điều 202, 207 Bộ luật lao động 2012 8 Tranh chấp về môi trường Thời hiệu khởi kiện về môi trường được tính từ thời điểm tổ chức, cá nhân bị thiệt hại phát hiện được thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về môi trường của tổ chức, cá nhân khác. Khoản 3 Điều 162 Luật bảo vệ môi trường 2014 9 Tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa - Thời hiệu khởi kiện về chất lượng sản phẩm, hàng hóa giữa người mua với người bán hàng được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự. - Thời hiệu khởi kiện về chất lượng sản phẩm, hàng hóa giữa các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh được thực hiện theo quy định của Luật thương mại. - Thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường do sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường là: + 2 năm: kể từ thời điểm các bên được thông báo về thiệt hại với điều kiện thiệt hại xảy ra trong thời hạn sử dụng của sản phẩm, hàng hóa có ghi hạn sử dụng; + 5 năm: kể từ ngày giao hàng đối với sản phẩm, hàng hóa không ghi hạn sử dụng. Điều 56 Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa 2007 10 Tranh chấp hàng hải - Thời hiệu khởi kiện về hư hỏng, mất mát hàng hóa là 01 năm kể từ ngày trả hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho người nhận hàng. - Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng vận chuyển theo chuyến là 02 năm kể từ ngày người khởi kiện biết hoặc phải biết quyền lợi của mình bị xâm phạm. - Thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường tổn thất do hành khách chết, bị thương hoặc tổn hại khác về sức khỏe và mất mát, hư hỏng hành lý là 02 năm. - Thời hiệu khởi kiện đối với vụ việc liên quan đến hợp đồng thuê tàu là 02 năm kể từ ngày chấm dứt hợp đồng. - Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng đại lý tàu biển là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. - Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng môi giới hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. - Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng lai dắt tàu biển là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. - Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng cứu hộ hàng hải là 02 năm kể từ ngày kết thúc hành động cứu hộ. - Thời hiệu khởi kiện về tai nạn đâm va là 02 năm kể từ ngày xảy ra tai nạn. - Thời hiệu khởi kiện về việc đòi hoàn trả số tiền quá mức quy định tại khoản 4 Điều 287 của Bộ luật này là 01 năm kể từ ngày trả tiền bồi thường. - Thời hiệu khởi kiện về tổn thất chung là 02 năm kể từ ngày xảy ra tổn thất chung. Thời gian tiến hành phân bổ tổn thất chung không tính vào thời hiệu khởi kiện về tổn thất chung. - Thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Điều 169, 195, 214, 219, 241, 246, 290, 297, 336 Bộ luật hàng hải Việt nam
Toàn bộ quy định về thời hiệu khởi kiện trong Dân sự, Hành chính, Thương mại
Để bảo vê quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức pháp luật sẽ điều chỉnh những quan hệ xã hội mà lợi ích và quyền bị xâm hại. Tuy nhiên, việc bảo vệ này tuân thủ quy định về thời hiệu cụ thể với từng vấn đề. Shin sẽ liệt kê dưới đây, hy vọng sẽ giúp ích nhiều cho các bạn. Thời hiệu khởi kiện trong Dân sự: là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản - 30 năm đối với bất động sản, - 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Chú ý 04 trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện: 1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. 2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. 4. Trường hợp khác do luật quy định. Đối với các tranh chấp Thương mại: Thời hiệu khởi kiện áp dụng là hai năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Toà án trong thời hạn chín tháng, kể từ ngày giao hàng. ( điểm e khoản 1 Điều 237 Luật Thương mại 2005) Đối với các vụ án Hành chính: Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. - 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; - 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; - Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau: - 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; - 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại. Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện. Luật Thương mại 2005 Luật tố tụng hành chính 2015 Bộ luật Dân sự 2015
Thỏa thuận gia hạn thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại Điều 184 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015: "Điều 184. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự ... 2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc." Theo đó, nếu hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án vẫn thụ lý đơn, tuy nhiên, một trong hai bên có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện. Hiểu nôm na là nếu hết thời hiệu khởi kiện rồi mà nguyên đơn nộp đơn lên, nếu bên bị đơn đồng ý không phản bác gì thì vụ án được thụ lý và giải quyết như bình thường. Còn nếu như bên bị đơn phản bác là đã hết thời hiệu khởi kiện thì vụ án sẽ bị đình chỉ theo điểm e khoản 1 Điều 217. Do đó, việc ký thỏa thuận gia hạn khởi kiện, bản chất nó là ký thỏa thuận là nếu có hết thời hiệu khởi kiện thì bên bị đơn vẫn chấp nhận để Tòa án thụ lý. Việc ký thế này thật ra là để tạo lòng tin, vì giả sử bên bị đơn có ký thỏa thuận rồi, nhưng đến khi ra Tòa bên mình phá vỡ thỏa thuận và yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Tòa cũng sẽ làm theo nguyên tắc của luật và đình chỉ vụ án, chứ Tòa sẽ không dựa vào "thỏa thuận gia hạn thời hiệu khởi kiện" để mà tiếp tục xử lý vụ án được.
Thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
Câu hỏi: Cho tôi hỏi thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là bao lâu? Câu trả lời: Đối với nội dung này, Điều 33 Luật Trọng tài thương mại 2010 có quy định: "Điều 33. Thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm" Như vậy, trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm anh/chị nhé.
Thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế
Chào Luật sư, xin luật sư tư vấn với nội dung sau: Ông nội tôi thuở sinh thời có 3 người vợ, người mất cuối cùng năm 1976, năm 1993 ông nội tôi mất tất cả đều không để lại di chúc trước khi chết, Bố tôi là con bà 3 cũng là con út, ở cùng bố mẹ, khi ông bà tôi chết gia đình tôi ở trên thửa đất của ông bà để lại cải tạo, sinh sống, năm 2018 bác trên bố tôi khởi kiện ra tòa về chia thừa kế. Tòa án nhân dân thụ lí với nguyên đơn là bác tôi, bị đơn là bố tôi. Xin luật sư tư vấn trong trường hợp này có phần di sản thừa kế nào hết thời hiệu khởi kiện không? Xin trân trọng cảm ơn!
Bàn về Thời hiệu khởi kiện trong Sở hữu trí tuệ
Vấn đề áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với các hành vi xâm phạm Sở hữu trí tuệ (SHTT) sẽ được thực hiện theo quy định pháp luật chung về dân sự và tố tụng dân sự. Tuy nhiên, các đối tượng SHTT là những tài sản rất đặc biệt, mang những đặc trưng riêng so với các loại tài sản thông thường bởi những đặc điểm như tính chất vô hình, kéo theo vai trò của các nội dung quyền sở hữu bao gồm chiếm hữu, sử dụng và định đoạt có ý nghĩa khác nhau, bên cạnh đó là vấn đề thời hạn bảo hộ cho các đối tượng này cũng được quy định hoàn toàn khác với những tài sản thông thường. Do vậy, trong quá trình giải quyết các tranh chấp SHTT không thể không xem xét đến những đặc điểm này của đối tượng quyền SHTT: Thứ nhất, Bảo hộ quyền SHTT là bảo hộ có thời hạn Không giống như các tài sản thông thường, tài sản trí tuệ được nhà nước và pháp luật bảo hộ theo những thời hạn nhất định mà trong thời hạn này, quyền của chủ thể được bảo hộ tuyệt đối. Thời hạn bảo hộ quyền SHTT được xác định căn cứ vào thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ tại Điều 93 Luật SHTT đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp, Điều 27 đối với đối tượng quyền tác giả và Điều 34 đối với đối tượng quyền liên quan. Thời hạn bảo hộ được tính toán phù hợp sao cho trong khoảng thời gian này, chủ thể sáng tạo/chủ sở hữu quyền đã nhận lại được những lợi ích từ hoạt động lao động sáng tạo đó, được bù đắp chi phí về vật chất, trí tuệ, được hưởng lợi nhuận từ việc khai thác thành quả của mình. Hết thời hạn bảo hộ, các tài sản trí tuệ trở thành tài sản chung của nhân loại được phục vụ rộng rãi cho cộng đồng. Về nguyên tắc, khi đối tượng SHTT còn đang trong thời hạn bảo hộ thì chủ sở hữu có quyền sử dụng độc quyền đối tượng đó và ngăn không cho những chủ thể khác xâm phạm đến đối tượng đã được bảo hộ của mình, trừ các trường hợp ngoại lệ do luật định (Điều 25, 26, 32, 33, 133, 145, 146 Luật SHTT). Mặt khác, trên thực tế đã có trường hợp bên A bị xâm phạm quyền SHTT (vẫn đang được bảo hộ) nhưng lại không bị xử lý vì hết thời hiệu khởi kiện. Quyền của chủ sở hữu tài sản trí tuệ đã không được bảo hộ một cách trọn vẹn đúng như ý nghĩa của quy định về thời hạn bảo hộ. Thiết nghĩ, nếu pháp luật đã quy định về thời hạn bảo hộ cho các đối tượng SHTT thì vấn đề thời hiệu khởi kiện liên quan cũng cần được quy định phù hợp. Thứ hai, Tài sản trí tuệ là tài sản vô hình Đối với tài sản thông thường, chủ sở hữu sẽ có 03 quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Trong khi đó quyền chiếm hữu trong SHTT lại rất mờ nhạt và gần như không tồn tại, bởi chúng ta không thể nắm bắt, chiếm hữu ý tưởng, kiến thức được, ngoại trừ một số trường hợp liên quan đến bí mật kinh doanh, các công thức, danh sách… Khi một đối tượng SHTT thuộc quyền sở hữu của một chủ thể nhất định, hành vi trực tiếp khai thác giá trị lợi ích, thể hiện rõ nhất quyền sở hữu chính là hành vi sử dụng độc quyền đối tượng đó. Tuy nhiên SHTT đặc biệt ở chỗ những chủ thể khác khi thực hiện hành vi xâm phạm không nhất thiết phải “chiếm hữu riêng” đối tượng SHTT cho mình. Điều này có nghĩa là ngay cả khi chủ sở hữu đang thực hiện hành vi sử dụng đối tượng thì chủ thể vi phạm vẫn thực hiện hành vi xâm phạm của mình và sự vi phạm này là vi phạm về tính “độc quyền” mà chủ thể có quyền được pháp luật ghi nhận. Với cách quy định tại Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP và sau này là Nghị quyết 03/2012/ NQ-HĐTP, các tranh chấp dân sự không áp dụng thời hiệu khởi kiện có bao gồm trường hợp “Tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu là tranh chấp về tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của mình nhưng do người khác quản lý, chiếm hữu tài sản đó”. Và vì xâm phạm SHTT không nhất thiết phải nắm giữ đối tượng đó, nên nếu có một bên B nào đó đang sử dụng đối tượng SHTT đang được bảo hộ của bên C, thì bên C có được Tòa bảo vệ? Lý luận theo quy định này, một khi có chủ thể khác không phải là chủ sở hữu đang quản lý, chiếm hữu tài sản thuộc quyền sở hữu của mình thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Nghĩa là chừng nào mà chủ thể vi phạm còn có hành vi chiếm giữ bất hợp pháp (hành vi xâm phạm) thì chủ thể bị vi phạm vẫn có thể khởi kiện mà không cần xem xét đến thời hiệu khởi kiện. Áp dụng như thế này có vẻ hợp lý hơn cho các đối tượng SHTT, vì như đã nói ở trên, bảo hộ SHTT là bảo hộ có thời hạn và trong thời hạn này sự bảo hộ nên là tuyệt đối. Tất nhiên, việc bảo hộ sẽ chấm dứt khi hết thời hạn bảo hộ và sau thời hạn này các quyền tài sản của chủ sở hữu sẽ chấm dứt theo quy định. Tóm lại, với những đặc trưng riêng có của mình, các đối tượng quyền SHTT đòi hỏi sự xem xét một cách đặc biệt hơn, phù hợp hơn khi áp dụng. Để giải quyết vấn đề này, nên chăng có thêm quy định riêng biệt về thời hiệu khởi kiện trong lĩnh vực SHTT, chẳng hạn như quy định thời hiệu khởi kiện về quyền SHTT theo “thời hạn bảo hộ” đối với các đối tượng quyền SHTT có quy định thời hạn bảo hộ (như quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, nhãn hiệu thông thường, kiểu dáng công nghiệp…); còn đối với các đối tượng quyền SHTT không quy định thời hạn bảo hộ (như nhãn hiệu nổi tiếng, bí mật kinh doanh, tên thường mại…) thì theo hướng “không áp dụng thời hiệu khởi kiện”.
Hỏi về vi phạm thời hiệu khởi kiện
Kính gửi luật sư, nhờ luật sư giải đáp giúp tôi vấn đề sau: Chị A có mượn tôi một khoản tiền, ngày mượn là ngày 13/9/2015 đến nay đã là 34 tháng mà chị không trả cho tôi đồng nào, tôi đã làm đơn kiện ở tòa án sơ thẩm, giấy nợ của tôi không ghi thời hạn trả nợ, nhưng khi tôi viết giấy thông báo đòi nợ, tôi yêu cầu chị phải trả cho tôi cả gốc lẫn lãi từ ngày 13/9/2015 cho đến nay thì tôi có vi phạm thời hiệu khởi kiện không? (trước ngày 1/7/2016 thời hiệu khởi kiện là 2 năm ) . Nếu vi phạm thời hiệu khởi kiện thì bị đình chỉ vụ án phải không. Tòa án đa hòa giải 2 lần, tòa còn hòa giải lần thứ 3 nữa. Nếu vì yêu cầu tính lãi từ ngày 13/9/2015 đến nay là vi phạm thời hiệu khởi kiện thì tôi phải làm thế nào để tòa án giải quyết.
HỎI VỀ THỜI HIỆU KHỎI KIỆN CÓ BỊ TÒA ÁN HỦY ĐƠN KIỆN
Kính thưa luật sự: tôi có một vấn đề rất mong muốn được luật sư tư vấn và giải đáp giúp. Chị A có mượn tôi một khoản tiền, ngày mượn là 13/9/2015 đến nay đã là 34 tháng mà chị vẫn không trả đồng nào và cố tình trốn tránh không chịu hoàn thành nghĩa vụ trả nợ nên tôi đã gửi đơn khởi kiện, trong giấy nợ không có ghi thời hạn trả nợ nên tôi đã viết giấy thông báo đòi nợ và gửi bằng đường bưu điện. Vậy xin luật sư hãy giải đáp giúp tôi vấn đề sau: Theo tôi được biết phát sinh mâu thuẫn trước ngày mùng 1 tháng 1 2017 thì áp dụng theo bộ luật dân sự 2004 phải không .thời hiệu khởi kiện là 2 năm . vậy vụ án của tôi mượn từ ngày 13 tháng 9 năm 2015 đến nay là 34 tháng. vậy vụ án của tui đã quá thời hiệu khởi kiện phải không. khi đã quá thời hiệu khởi kiện nhưng tôi vẫn đòi lấy Cả vốn lẫn lãi thì tôi có vi phạm vào luật khởi kiện hay không và có bị Tòa án hủy án hay không. Và nếu bị tòa án hủy đơn thì làm thế nào để tòa án không hủy đơn của tôi. Xin luật sư tư vấn giúp, Xin chân thành cám ơn.
Kính gửi luật sư, Tôi có mua cổ phần ở một công ty, hiện nay giám đốc không trả cổ tức cho tôi với lý do hồ sơ cổ phần của tôi mất cổ phiếu của người bán cổ phần cho tôi. Tôi kiện công ty ra tòa. Trong khi chờ Tòa xét xử buộc công ty phải công nhận tôi là cổ đông, nếu quá hạn kiện đòi cổ tức thì phải giải quyết thế nào? Cám ơn luật sư
Hết thời hiệu có khởi kiện vụ án tranh chấp dân sự được không?
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, một trong những vấn đề pháp lý quan trọng cần lưu ý là thời hiệu khởi kiện. Câu hỏi đặt ra là liệu hết thời hiệu có khởi kiện vụ án tranh chấp dân sự được không? Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác theo khoản 1 Điều 154 BLDS năm 2015 Thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu. (1) Hết thời hiệu có khởi kiện vụ án tranh chấp dân sự được không? Các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự theo Điều 185 BLTTDS năm 2015. Căn cứ Điều 150 BLDS năm 2015 quy định về các loại khởi kiện như sau: - Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự. - Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện nghĩa vụ. - Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. - Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu. Tuy nhiên, theo Điều 149 BLDS năm 2015 quy định về thời hiệu như sau: - Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Thời hiệu được áp dụng theo quy định của BLDS năm 2015, luật khác có liên quan. - Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc. - Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Như vậy, khi thời hạn khởi kiện kết thúc thì sẽ mất quyền khởi kiện khi trong trường hợp Tòa án chỉ được áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc. (2) Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự Theo Điều 156 BLDS năm 2015 đề cập đến 03 trường hợp không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án, bao gồm: Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây: - Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình. - Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. - Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây: + Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân. + Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được. (3) Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp được quy định tại Điều 157 BLDS năm 2015: - Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện. - Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện. - Các bên đã tự hòa giải với nhau. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện quy định tại khoản 1 Điều 157 Tóm lại, khi thời hạn khởi kiện kết thúc thì sẽ mất quyền khởi kiện khi trong trường hợp Tòa án chỉ được áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc. Ngoài ra trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật, có thể bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Bên cạnh đó, các bên cần lưu ý đến 03 tình huống, sự việc, thời gian sẽ không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.
Vụ nợ tín dụng 8,8 tỷ của Eximbank, liệu ngân hàng còn thời hiệu khởi kiện?
Vừa qua đã xảy ra vụ việc một khách hàng của Eximbank, từ 8,5 triệu sau 11 năm phát sinh dư nợ tín dụng 8,8 tỷ đồng. Việc khoản nợ bị kéo dài như vậy, liệu thời hiệu khởi kiện của ngân hàng có còn hay không? quy định pháp luật về vấn đề này như thế nào? Thời hiệu khởi kiện theo quy định pháp luật Thời hiệu khởi kiện theo Khoản 3 Điều 150 BLDS 2015 là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Theo Khoản 1 Điều 154 BLDS 2015, Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Về thời hiệu khởi kiện về hợp đồng, được quy định tại Điều 429 BLDS 2020 như sau: Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại, được quy định tại Điều 588 BLDS 2015 như sau: Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều 156 BLDS như sau: - Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây: + Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu. + Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. + Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình; - Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; - Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây: + Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân; + Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được. Ngân hàng Eximbank có còn thời hiệu khởi kiện khách hàng không? Vì đây là tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tín dụng nên khi ngân hàng Eximbank kiện khách hàng sẽ áp dụng thời hiệu khởi kiện về hợp đồng, tức là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Vì vậy, vấn đề thời hiệu này phải xem xét thời hạn hai bên hẹn thanh toán khoản nợ tín dụng là khi nào, từ ngày hết hạn thanh toán đó đến nay đã quá 03 năm chưa. Nếu đã quá thời hạn trả 03 năm mà người vay không trả nợ, bên cho vay không nhắc nợ, không khởi kiện đến Tòa án để được xem xét giải quyết trong thời hạn này, đến nay đã hết thời hiệu khởi kiện, ngân hàng có khởi kiện có thể tòa án cũng không giải quyết. Đồng thời, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước cần vào cuộc để xác minh làm rõ cách tính lãi suất của Ngân hàng Eximbank và rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật quy định về lãi suất cho vay, lãi suất thẻ tín dụng đối với người khách hàng này có đúng với Pháp luật hay không bởi con số từ 8,5 triệu đồng sau 11 năm lên đến 8,8 tỷ đồng là một con số mà không ai có thể hình dung được. Trường hợp việc tính lãi như trên là đúng pháp luật, Tòa án sẽ chấp nhận yêu cầu khởi kiện dù khách hàng không đồng ý trả vì tự nhận thấy rằng việc tính lãi suất này không phù hợp. Đương nhiên, với điều kiện là phải còn trong thời hiệu khởi kiện 03 năm. Đồng thời, khách hàng cũng có thể bị khởi tố hình sự nếu gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc có điều kiện trả nợ nhưng cố tình không trả nợ hoặc sử dụng tài sản vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả nợ, khi đó sẽ xử lý về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự. Trên đây là thông tin về thời hiệu khởi kiện vụ 8,8 tỷ của Eximbank. Thông qua sự việc trên, những khách hàng khi vay tín dụng cần hết sức chú ý về nghĩa vụ thanh toán nợ cũng như lãi suất của ngân hàng, tránh trường hợp số nợ vượt tầm kiểm soát như tình huống vừa qua. Xem thêm: Cách tính lãi của thẻ tín dụng? Có những lưu ý nào cần phải biết? Thẻ ngân hàng không dùng nữa có bị tính phí không?
Khó xử: Lỗi do học sinh, phụ huynh hay nhà trường phải bồi thường?
Trong thời gian học tại cơ sở phổ thông, không ít trường hợp học sinh gây thiệt hại khi còn đang đi học và được sự quản lý trực tiếp của nhà trường và sự giáo dục, quản lý của gia đình. Khi đó, vấn đề trách nhiệm bồi thường được đặt lên bàn cân rằng phụ huynh của học sinh sẽ là người trực tiếp bồi thường thiệt hại hay trách nhiệm đó sẽ thuộc về phía nhà trường? 1. Trách nhiệm bồi thường là của ai? Hiện nay, học sinh tại Việt Nam được chia theo 3 bậc phổ thông với độ tuổi trung bình khác nhau. Tuy nhiên, khi thực hiện bồi thường thì căn cứ theo Bộ luật Dân sự 2015 phân biệt đối tượng thực hiện bồi thường gồm người dưới 15 tuổi và từ đủ 15 tuổi đến đủ 18 tuổi. 1.1 Bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi gây ra Cụ thể tại Điều 599 Bộ luật Dân sự 2015 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì: Người chưa đủ 15 tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản lý mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên, trường học không phải bồi thường nếu chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý. Trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của người dưới 15 tuổi, người phải bồi thường. Đồng thời, theo Điều 11 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP có giải thích về bồi thường thiệt hại do người chưa đủ 15 tuổi gây ra trong thời gian trường học, trực tiếp quản lý như sau: Thời gian trường học trực tiếp quản lý là trong phạm vi thời gian và không gian mà trường học đã tiếp nhận và có trách nhiệm quản lý, chăm sóc, dạy dỗ người chưa đủ 15 tuổi. Do đó, nếu thuộc phạm vi này thì nhà trường có trách nhiệm bồi thường. Trường hợp nhà trường chứng minh được thiệt hại do học sinh gây ra không thuộc phạm vi quản lý thì trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về phụ huynh học sinh. 1.2 Bồi thường thiệt hại do người từ 15 đến 18 tuổi trở lên gây ra Người chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại căn cứ khoản 2 Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: Nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. 2. Thời hiệu khởi kiện quyền lợi bị xâm hại Trong trường hợp phía nhà trường và phụ huynh không thể thỏa thuận để dẫn đến kết quả cuối cùng thì có thể đưa ra Tòa án xét xử. Tuy nhiên, cũng cần chú ý về thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp này. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện Theo đó, tại Điều 154 Bộ luật Dân sự 2015 bắt đầu thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự như sau: - Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. - Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Ngoài ra, Điều 5 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP cũng lý giải về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 588 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trước hoặc sau ngày 01/01/2017 (ngày Bộ luật Dân sự có hiệu lực) và đương sự khởi kiện từ ngày 01/01/2017, thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại đều là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Thời điểm người có quyền yêu cầu biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm là khi họ nhận ra được hoặc có thể khẳng định được về việc quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Trường hợp người có quyền yêu cầu phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm là trong điều kiện, hoàn cảnh bình thường, nếu có thiệt hại xảy ra thì người đó biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc trường hợp pháp luật có quy định phải biết. Như vậy, trường hợp mà học sinh gây nên thiệt hại còn tùy thuộc vào phạm vi thuộc quản lý của nhà trường hay không, nếu học sinh dưới 15 tuổi mà trong phạm vi của nhà trường thì nhà trường có trách nhiệm bồi thường, ngược lại sẽ do phụ huynh học sinh chịu trách nhiệm. Trường hợp học sinh đó trên 15 đến 18 tuổi thì phải tự chịu trách nhiệm chính.
Không phải muốn kiện là kiện, mà phải có quyền khởi kiện
Một vụ án không thể nào quên. Vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, có liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Về mặt nội dung thì phức tạp, vì liên quan đến pháp luật về hàng hải của quốc gia Kazakhstan, Singgapore và qui tắc Incoterm 2010. Tuy nhiên, về mặt tố tụng thì rất đơn giản. Chỉ cần nắm và hiểu rõ quy định về QUYỀN KHỞI KIỆN thì giải quyết… trong vòng một nốt nhạc. Đọc đơn khởi kiện là biết người khởi kiện không có quyền khởi kiện. Thế nhưng, vụ án kéo dài 4 năm. Ngay từ buổi hòa giải đầu tiên, tôi đã gửi đơn đề nghị Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do người khởi kiện không có quyền khởi kiện. Và sau đó, tôi tiếp tục gửi đơn hai lần nữa. Nhưng rất tiếc, thẩm phán xem xét đơn đề nghị của tôi quá muộn. Bốn năm sau, Tòa mới chấp nhận đề nghị của tôi, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do người khởi kiện không có quyền khởi kiện. Giá như Tòa án xem xét đề nghị của tôi sớm hơn thì chắc chắn các đương sự không phải mất thời gian, tốn tiền bạc để thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp sang Singgapore, Kazakhstan. Qua nhiều buổi hòa giải, gặp nhau bên ngoài trao đổi, tôi thấy người tư vấn cho bên đi kiện không hề quan tâm đến quy định về QUYỀN KHỞI KIỆN. Không phải cứ muốn kiện là kiện, mà phải có QUYỀN KHỞI KIỆN thì mới kiện được. Nếu không có QUYỀN KHỞI KIỆN mà nộp đơn kiện, thì về mặt luật, Tòa án phải trả hồ sơ; nếu Tòa án đã thụ lý thì phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Hỏi về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế với bất động sản
Dạ thưa Luật sư “tại Phần 1 Giải đáp 01/GĐ-TANDTC năm 2018 có quy định đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990”. Ông bà nội cháu đều chết trước năm 1975 đến nay đã quá 30 năm, Ba mẹ cháu đã kê khai theo Chỉ thị 299 và được cấp sổ hồng đến thời điểm hiện tại (nếu áp dụng Luật dân sự 2015 thì đã quá thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với bất động sản và các đồng thừa kế không có quyền khởi kiện), nhưng nếu áp dụng hướng dẫn như trên thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế với bất động sản lại vẫn còn, điều này có đúng không ạ?
Thời hiệu khởi kiện khi có vi phạm hợp đồng vay mượn
Tôi có một người bạn tên Phúc cùng với con là Anh Thư hỏi mượn tôi 100 triệu đồng trong thời gian 2, 3 tháng, cùng lắm là 1 năm để giải quyết việc nhà. Lãi suất bằng với lãi suất vay ngân hàng và bà Phúc hứa sẽ trả 1 lần khi xong việc. Lúc đó Anh Thư đã cho tôi số tài khoản ngân hàng và tôi đã chuyển 100 triệu đồng vào số tài khoản đó ngày 06/9/2016, trên nội dung giấy chuyển tiền tôi có ghi “cho mượn tiền”. Vì 2 bên khá thân nhau và họ là những người có tài sản, thời gian vay mượn không lâu nên mọi việc chỉ hứa miệng, không có làm biên nhận vay mượn tiền. Tuy nhiên, khi hết hạn 1 năm thì họ hẹn 2 năm, hết hạn 2 năm lại hẹn tiếp, rồi đòi chỉ trả vốn (mọi việc chỉ thực hiện lúc gặp nhau hoặc qua điện thoại). Khi tôi yêu cầu trả vốn họ cũng không trả. Vì họ có quen thân với anh ruột tôi nên ngày 23/4/2019 (cách lúc gửi tiền cho họ mượn là 2 năm 7 tháng) anh tôi có điện thoại yêu cầu bà Phúc cho một câu trả lời cho tôi biết số tiền đó giải quyết thế nào. Cuộc điện thoại lần này anh tôi có ghi âm lại. Trong băng ghi âm, anh tôi có nói là sau 2 năm tôi có nhờ anh ấy đòi tiền nhưng đến bấy giờ anh ấy mới hỏi, bà Phúc có thừa nhận mượn số tiền 100 triệu để lo việc nhà, có nói rõ số tiền 100 triệu đã gửi vào tài khoản Anh Thư và bà Phúc có nói là anh tôi biết rõ việc nhà bà Phúc chưa xong mà sao lại đòi tiền đồng thời bà Phúc hứa trả nhưng không hẹn thời gian (“sẽ trả”; “sẽ tính”). Cuộc điện thoại không có nói gì đến tiền lãi. Sau đó ít hôm, anh tôi đòi tiếp thì lần này bà Phúc không chịu trả kể cả tiền vốn. Ngày 20/5/2019, tôi gửi thư chuyển phát nhanh cho bà Phúc để đòi tiền (chỉ đòi vốn) thì họ ghi 2 chữ “TÀO LAO” vào thư rồi quăng trả lại trong nhà tôi. Trong thời gian chúng tôi có qua lại thân thiết với nhau, bà Phúc đã lén chụp ảnh anh tôi ngồi kế bên những cô bạn đi chung khác (không có hành vi nào thân mật quá mức, chỉ ngồi gần) và đến bây giờ họ thách thức rằng nếu tôi kiện ra toà thì họ sẽ đưa những tấm ảnh cho vợ và chị vợ anh ấy, còn tôi là người bao che chứa chấp anh tôi quan hệ bất chính tại nhà tôi. Chính vì thế nên anh tôi nói chỉ bỏ tiền lãi chứ không bỏ vốn, điều này trái với yêu cầu không được đòi tiền của họ. Ngày 21/9/2019, bà Phúc đã chuyển hình ảnh đó cho vợ anh tôi (qua điện thoại). Vợ anh tôi đã trả lời bà Phúc là: Nếu chồng tôi có nhiều bạn tri kỷ thì cũng là điều tốt chứ không sao cả. Mưu đồ của họ đã thất bại. Tôi muốn hỏi: - Vì đã quá thời hiệu 2 năm và tôi không có chứng cứ đòi tiền lúc hết hạn 1 năm thì bây giờ tôi chỉ có thể đòi lại tiền vốn mà thôi – không đòi được lãi, có phải như thế là đúng hay không? - Do lúc tôi chuyển tiền cho họ thì cũng không khẳng định chính xác thời gian trả và ngày 23/4/2019 (sau 2 năm 7 tháng) bà Phúc tiếp tục hẹn, sau đó là sự đe doạ thì tôi có thể dùng nó làm chứng cứ để đòi trả tiền lãi được hay không? Kính mong quý luật sư giúp đỡ, vì tôi đã bị họ chiếm dụng số tiền quá lâu nên bị thiệt hại không nhỏ. Xin chân thành cảm ơn quý luật sư!
Các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện
Khi cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm, chủ thể đó có thể tiến hành khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để giải quyết. Xong, chủ thể khởi kiện phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện, theo đó, nếu thời hạn đó kết thúc thì sẽ mất quyền khởi kiện. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp để bảo đảm quyền lợi cho bên bị xâm phạm mà pháp luật đã đưa ra quy định về không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong một số trường hợp nhất định. Theo quy định tại Điều 155 của BLDS năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây: - Thứ nhất: Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. - Thứ hai: Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. - Thứ ba: Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai. - Thứ tư: Trường hợp khác do luật quy định. Một ví dụ trong trường hợp thứ tư này đó là thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Khoản 2 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định trong trường hợp khởi kiện về tranh chấp di sản thừa kế thì thời hiệu khởi kiện là 10 năm, kể từ ngày mở thừa kế. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ sẽ không áp dụng thời hiệu, đó là các trường hợp quy định tại Tại Mục 2.4, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, cụ thể: "Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế - Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau: + Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc. + Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ. + Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung. - Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo Ủy quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản."
Vì sao vay tiền phải áp dụng thời hiệu khởi kiện?
Xem thêm: >>> Các tranh chấp dân sự không áp dụng thời hiệu khởi kiện >>> Chứng thực bản án, UBND xã có quyền? >>> Cách viết đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Vấn đề nêu trên là một nội dung gây không ít tranh cãi liên quan đến quyền sở hữu tài sản nhưng lại áp dụng thời hiệu khởi kiện. Nội dung dưới đây mình sẽ đưa ra các quy định của pháp luật cũng như quan điểm của mình về vấn đề này như sau: Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về “Không áp dụng thời hiệu khởi kiện” trong các trường hợp sau: 1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. 2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. 4. Trường hợp khác do luật quy định. Trường hợp không áp dụng thời hiệu đối với “yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu” nội dung này đã bỏ đi trường hợp “đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu” được quy định tại Điều 159, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Theo quan điểm của mình, sở dĩ bên cho vay cũng không có cơ sở để áp dụng quy định về đòi lại “quyền sở hữu tài sản” đối với tranh chấp là cho vay tiền, bởi lẽ khác với cho mượn tài sản, sau khi giao nhận tài sản vay, bên cho vay không còn “quyền sở hữu tài sản” vay, mà “bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó”, theo quy định tại Điều 464 về “Quyền sở hữu đối với tài sản vay”, Bộ luật Dân sự năm 2015. Thêm nữa, cần lưu ý phân biệt rõ vay tiền và mượn tiền. XEM TẠI ĐÂY Hiểu một cách nôm na về quyền sở hữu đối với tài sản, nếu đó là tài sản vay thì bên vay sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó. Nếu đó là tài sản mượn thì quyền sở hữu tài sản vẫn sẽ thuộc về bên cho mượn, bên mượn chỉ được sử dụng tài sản đó để nhằm đạt được mục đích nhất định của mình. Giải thích thêm, sở dĩ coi tiền là vật tiêu hao bởi vì khi hết thời hạn cho “mượn” tiền, thay vì chỉ cần thanh toán một khoản tiền tương đương thì người mượn phải hoàn trả lại theo đúng số tiền mà người cho mượn đã giao cho (chính xác từ số lượng, mệnh giá, số sê ri… của từng tờ tiền). Sở dĩ như vậy là do bên mượn phải trả lại tài sản mượn cho bên cho mượn theo quy định tại BLDS Vì vậy, nếu theo đúng các quy định trên, thì thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp đòi lại tiền cho vay nói riêng và tài sản cho vay nói chung sẽ là 3 năm . Có bạn nào có quan điểm khác mình về cách giải thích trên hay không thì chia sẻ nhé!
Các tranh chấp dân sự không áp dụng thời hiệu khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Ngoài các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 155 BLDS 2015 1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. 2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. 4. Trường hợp khác do luật quy định. Thì đối với các tranh chấp dân sự sau đây thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện: - Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản là tranh chấp ai có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó; Ví dụ: Tranh chấp ai có quyền sở hữu nhà ở; nếu có khởi kiện thì Tòa án thụ lý vụ án; việc chấp nhận hay không phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. -Tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu là tranh chấp về tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của mình nhưng do người khác quản lý, chiếm hữu tài sản đó; Ví dụ: Ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của A nhưng do B đang quản lý; A có tài liệu chứng minh ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của A và khởi kiện đòi nhà thì Tòa án thụ lý; việc chấp nhận hay không phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. - Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai là tranh chấp ai có quyền sử dụng đất đó. - Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về đòi lại tài sản, đòi lại quyền sử dụng đất do người khác quản lý, chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Ví dụ 1: Ngày 01-01-2008, A cho B vay 500 triệu đồng, thời hạn vay là 1 năm. Đến ngày 01-01-2009, B không trả tiền gốc và tiền lãi. Đến ngày 03-4-2011, A khởi kiện yêu cầu buộc B trả lại khoản tiền gốc và tiền lãi. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi thì Tòa án không giải quyết vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền gốc thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện, Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung. Ví dụ 2: Đối với tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ mà có tranh chấp về việc ai có quyền sở hữu đối với quyền sở hữu trí tuệ đó thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Nếu tranh chấp các giao dịch về quyền sở hữu trí tuệ thì áp dụng thời hiệu tương ứng đối với giao dịch quyền sở hữu trí tuệ đó. Căn cứ: Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP
Hết thời hiệu khởi kiện người cho vay có mất quyền đòi nợ?
Tham khảo: >>> Trình tự giải quyết vụ án dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015; >>> Thời gian giải quyết một vụ án dân sự tối thiểu là bao lâu?; Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và nếu thời hạn đó kết thúc thì chủ thể này mất quyền khởi kiện. Thời hiệu được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Vậy trong trường hợp người cho vay đi khởi kiện người vay nhưng hết thời hiệu khởi kiện thì như thế nào? có mất luôn quyền quyền khởi kiện không? Theo đó, tại Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì “Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự”. Theo đó, tại Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện về hợp đồng như sau: “Điều 429. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm” Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP quy định đối với Tranh chấp hợp đồng vay tài sản như sau: "b) Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về đòi lại tài sản, đòi lại quyền sử dụng đất do người khác quản lý, chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Ví dụ 1: Ngày 01-01-2008, A cho B vay 500 triệu đồng, thời hạn vay là 1 năm. Đến ngày 01-01-2009, B không trả tiền gốc và tiền lãi. Đến ngày 03-4-2011, A khởi kiện yêu cầu buộc B trả lại khoản tiền gốc và tiền lãi. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi thì Tòa án không giải quyết vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền gốc thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện, Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung." Vậy nên, theo quy định trên thì đối với tranh chấp cho vay tài sản thì khi phát hiện người vay quỵt nợ hoặc quá thời hạn ba năm thì người cho vay vẫn không mất quyền đòi nợ mà vẫn có quyền gửi đơn khởi kiện đến tòa án để yêu cầu giải quyết theo quy định.
Thời hiệu khởi kiện hợp đồng vay tài sản
Tư vấn giúp em vấn đề về thời hiệu khơi kiện hợp đồng vay tài sản là tiền ạ Cụ thể: Anh ruột của em năm 2/2016 có cho người thân là dòng họ vay số tiền là 15.000.000đ với lãi suất 1.000.000 là 50.000đ một tháng. Đến nay người vay không trả lãi lẫn nợ gốc luôn. Dù bên anh em cố đòi người vay cứ hẹn đến bây giờ vẫn chưa trả nữa ạ. Em có tìm hiểu trên trang wed thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng vay tài sản là 3 năm. Đến nay em có còn quyền khởi kiện không? Nếu còn em có đòi lại được nợ góc lẫn lãi không ạ? Khi vay anh em có làm hợp đồng cho vay và có chữ ký của người vay. Tuy nhiên anh em làm mất, anh vừa làm lại cách đây vài hôm và người vay đã ký vào hợp đồng.
[Tổng hợp] Thời hiệu khởi kiện đối với một số tranh chấp dân sự
>>> 03 trường hợp thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại >>> 03 vấn đề liên quan đến thời hiệu cần lưu ý Khái niệm thời hiệu được hiểu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Theo quy định của Bộ luật dân sự (BLDS) 2015, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 có quy định rõ về việc căn cứ áp dụng thời hiệu như sau: “Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự” (khoản 1 Điều 184). Theo đó, thời hiệu khởi kiện sẽ được thực hiện căn cứ theo quy định của BLDS 2015. Mặt khác, tại khoản 4 Điều 4 của Nghị quyết 02/2016/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán đối với việc áp dụng pháp luật về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, vụ án hành chính có quy định: “Từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”. Nội dung điều khoản trên cho thấy, việc giải quyết các tranh chấp dân sự mà có quy định riêng về thời hiệu thì chúng ta sẽ áp dụng theo luật chuyên ngành cho từng lĩnh vực cụ thể của tranh chấp đó, nếu không có sẽ áp dụng quy định chung tại BLDS. Hiện nay, vấn đề thời hiệu khởi kiện đối với mỗi lĩnh vực lại tồn tại một luật khác nhau quy định. Bài viết dưới đây mình sẽ tổng hợp về thời hiệu khởi kiện của một số tranh chấp dân sự để mọi người tiện theo dõi. STT LĨNH VỰC TRANH CHẤP THỜI HIỆU KHỞI KIỆN CĂN CỨ PHÁP LÝ 1 Tranh chấp về hợp đồng 03 năm: kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Điều 429 BLDS 2015 2 Tranh chấp thương mại 02 năm: kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 237 của Luật này. Điều 319 Luật thương mại 2005 3 Tranh chấp vận chuyển hàng không - Thời hiệu khởi kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vận chuyển đối với thiệt hại xảy ra cho hành khách, hành lý, hàng hóa là: 02 năm kể từ ngày tàu bay đến địa điểm đến, ngày tàu bay phải đến địa điểm đến hoặc từ ngày việc vận chuyển bị chấm dứt, tùy thuộc vào thời điểm nào muộn nhất. - Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với người thứ ba ở mặt đất là: 02 năm, kể từ ngày phát sinh sự kiện gây thiệt hại. - Thời hiệu khởi kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vận chuyển đối với thiệt hại xảy ra cho hành khách, hành lý, hàng hóa là: 02 năm, kể từ ngày tàu bay đến địa điểm đến, ngày tàu bay phải đến địa điểm đến hoặc từ ngày việc vận chuyển bị chấm dứt, tùy thuộc vào thời điểm nào muộn nhất. Điều 174, 186 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 4 Tranh chấp về khám bệnh, chữa bệnh 05 năm: kể từ khi sự việc xảy ra. Khoản 3 Điều 80 Luật Khám chữa bệnh 2009 5 Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm 03 năm: kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp. Điều 30 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010 6 Tranh chấp về giao dịch các công cụ chuyển nhượng - Người thụ hưởng có quyền khởi kiện người ký phát, người phát hành, người bảo lãnh, người chuyển nhượng, người chấp nhận yêu cầu thanh toán số tiền quy định tại Điều 52 của Luật này trong thời hạn: ba năm, kể từ ngày công cụ chuyển nhượng bị từ chối chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán. - Người có liên quan bị khởi kiện theo quy định tại Điều 76 của Luật này có quyền khởi kiện người ký phát, người phát hành, người chuyển nhượng trước mình, người bảo lãnh, người chấp nhận về số tiền quy định tại Điều 52 của Luật này trong thời hạn: hai năm, kể từ ngày người có liên quan này hoàn thành nghĩa vụ thanh toán công cụ chuyển nhượng. - Trường hợp người thụ hưởng không xuất trình công cụ chuyển nhượng để thanh toán đúng hạn theo quy định tại Điều 43 và Điều 69 của Luật này hoặc không gửi thông báo về việc công cụ chuyển nhượng bị từ chối chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán trong thời hạn quy định tại Điều 50 của Luật này thì chỉ có quyền khởi kiện người chấp nhận, người phát hành, người ký phát, người bảo lãnh cho người bị ký phát trong thời hạn hai năm, kể từ ngày ký phát công cụ chuyển nhượng. Điều 78 Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005 7 Tranh chấp lao động - Thời hiệu yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 01 năm, kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. - Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. Điều 202, 207 Bộ luật lao động 2012 8 Tranh chấp về môi trường Thời hiệu khởi kiện về môi trường được tính từ thời điểm tổ chức, cá nhân bị thiệt hại phát hiện được thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về môi trường của tổ chức, cá nhân khác. Khoản 3 Điều 162 Luật bảo vệ môi trường 2014 9 Tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa - Thời hiệu khởi kiện về chất lượng sản phẩm, hàng hóa giữa người mua với người bán hàng được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự. - Thời hiệu khởi kiện về chất lượng sản phẩm, hàng hóa giữa các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh được thực hiện theo quy định của Luật thương mại. - Thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường do sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường là: + 2 năm: kể từ thời điểm các bên được thông báo về thiệt hại với điều kiện thiệt hại xảy ra trong thời hạn sử dụng của sản phẩm, hàng hóa có ghi hạn sử dụng; + 5 năm: kể từ ngày giao hàng đối với sản phẩm, hàng hóa không ghi hạn sử dụng. Điều 56 Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa 2007 10 Tranh chấp hàng hải - Thời hiệu khởi kiện về hư hỏng, mất mát hàng hóa là 01 năm kể từ ngày trả hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho người nhận hàng. - Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng vận chuyển theo chuyến là 02 năm kể từ ngày người khởi kiện biết hoặc phải biết quyền lợi của mình bị xâm phạm. - Thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường tổn thất do hành khách chết, bị thương hoặc tổn hại khác về sức khỏe và mất mát, hư hỏng hành lý là 02 năm. - Thời hiệu khởi kiện đối với vụ việc liên quan đến hợp đồng thuê tàu là 02 năm kể từ ngày chấm dứt hợp đồng. - Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng đại lý tàu biển là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. - Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng môi giới hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. - Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng lai dắt tàu biển là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. - Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng cứu hộ hàng hải là 02 năm kể từ ngày kết thúc hành động cứu hộ. - Thời hiệu khởi kiện về tai nạn đâm va là 02 năm kể từ ngày xảy ra tai nạn. - Thời hiệu khởi kiện về việc đòi hoàn trả số tiền quá mức quy định tại khoản 4 Điều 287 của Bộ luật này là 01 năm kể từ ngày trả tiền bồi thường. - Thời hiệu khởi kiện về tổn thất chung là 02 năm kể từ ngày xảy ra tổn thất chung. Thời gian tiến hành phân bổ tổn thất chung không tính vào thời hiệu khởi kiện về tổn thất chung. - Thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Điều 169, 195, 214, 219, 241, 246, 290, 297, 336 Bộ luật hàng hải Việt nam
Toàn bộ quy định về thời hiệu khởi kiện trong Dân sự, Hành chính, Thương mại
Để bảo vê quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức pháp luật sẽ điều chỉnh những quan hệ xã hội mà lợi ích và quyền bị xâm hại. Tuy nhiên, việc bảo vệ này tuân thủ quy định về thời hiệu cụ thể với từng vấn đề. Shin sẽ liệt kê dưới đây, hy vọng sẽ giúp ích nhiều cho các bạn. Thời hiệu khởi kiện trong Dân sự: là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản - 30 năm đối với bất động sản, - 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Chú ý 04 trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện: 1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. 2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. 4. Trường hợp khác do luật quy định. Đối với các tranh chấp Thương mại: Thời hiệu khởi kiện áp dụng là hai năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Toà án trong thời hạn chín tháng, kể từ ngày giao hàng. ( điểm e khoản 1 Điều 237 Luật Thương mại 2005) Đối với các vụ án Hành chính: Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. - 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; - 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; - Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau: - 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; - 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại. Trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm cho người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hiệu khởi kiện. Luật Thương mại 2005 Luật tố tụng hành chính 2015 Bộ luật Dân sự 2015
Thỏa thuận gia hạn thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại Điều 184 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015: "Điều 184. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự ... 2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc." Theo đó, nếu hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án vẫn thụ lý đơn, tuy nhiên, một trong hai bên có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện. Hiểu nôm na là nếu hết thời hiệu khởi kiện rồi mà nguyên đơn nộp đơn lên, nếu bên bị đơn đồng ý không phản bác gì thì vụ án được thụ lý và giải quyết như bình thường. Còn nếu như bên bị đơn phản bác là đã hết thời hiệu khởi kiện thì vụ án sẽ bị đình chỉ theo điểm e khoản 1 Điều 217. Do đó, việc ký thỏa thuận gia hạn khởi kiện, bản chất nó là ký thỏa thuận là nếu có hết thời hiệu khởi kiện thì bên bị đơn vẫn chấp nhận để Tòa án thụ lý. Việc ký thế này thật ra là để tạo lòng tin, vì giả sử bên bị đơn có ký thỏa thuận rồi, nhưng đến khi ra Tòa bên mình phá vỡ thỏa thuận và yêu cầu áp dụng thời hiệu thì Tòa cũng sẽ làm theo nguyên tắc của luật và đình chỉ vụ án, chứ Tòa sẽ không dựa vào "thỏa thuận gia hạn thời hiệu khởi kiện" để mà tiếp tục xử lý vụ án được.
Thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
Câu hỏi: Cho tôi hỏi thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là bao lâu? Câu trả lời: Đối với nội dung này, Điều 33 Luật Trọng tài thương mại 2010 có quy định: "Điều 33. Thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm" Như vậy, trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm anh/chị nhé.
Thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế
Chào Luật sư, xin luật sư tư vấn với nội dung sau: Ông nội tôi thuở sinh thời có 3 người vợ, người mất cuối cùng năm 1976, năm 1993 ông nội tôi mất tất cả đều không để lại di chúc trước khi chết, Bố tôi là con bà 3 cũng là con út, ở cùng bố mẹ, khi ông bà tôi chết gia đình tôi ở trên thửa đất của ông bà để lại cải tạo, sinh sống, năm 2018 bác trên bố tôi khởi kiện ra tòa về chia thừa kế. Tòa án nhân dân thụ lí với nguyên đơn là bác tôi, bị đơn là bố tôi. Xin luật sư tư vấn trong trường hợp này có phần di sản thừa kế nào hết thời hiệu khởi kiện không? Xin trân trọng cảm ơn!
Bàn về Thời hiệu khởi kiện trong Sở hữu trí tuệ
Vấn đề áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với các hành vi xâm phạm Sở hữu trí tuệ (SHTT) sẽ được thực hiện theo quy định pháp luật chung về dân sự và tố tụng dân sự. Tuy nhiên, các đối tượng SHTT là những tài sản rất đặc biệt, mang những đặc trưng riêng so với các loại tài sản thông thường bởi những đặc điểm như tính chất vô hình, kéo theo vai trò của các nội dung quyền sở hữu bao gồm chiếm hữu, sử dụng và định đoạt có ý nghĩa khác nhau, bên cạnh đó là vấn đề thời hạn bảo hộ cho các đối tượng này cũng được quy định hoàn toàn khác với những tài sản thông thường. Do vậy, trong quá trình giải quyết các tranh chấp SHTT không thể không xem xét đến những đặc điểm này của đối tượng quyền SHTT: Thứ nhất, Bảo hộ quyền SHTT là bảo hộ có thời hạn Không giống như các tài sản thông thường, tài sản trí tuệ được nhà nước và pháp luật bảo hộ theo những thời hạn nhất định mà trong thời hạn này, quyền của chủ thể được bảo hộ tuyệt đối. Thời hạn bảo hộ quyền SHTT được xác định căn cứ vào thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ tại Điều 93 Luật SHTT đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp, Điều 27 đối với đối tượng quyền tác giả và Điều 34 đối với đối tượng quyền liên quan. Thời hạn bảo hộ được tính toán phù hợp sao cho trong khoảng thời gian này, chủ thể sáng tạo/chủ sở hữu quyền đã nhận lại được những lợi ích từ hoạt động lao động sáng tạo đó, được bù đắp chi phí về vật chất, trí tuệ, được hưởng lợi nhuận từ việc khai thác thành quả của mình. Hết thời hạn bảo hộ, các tài sản trí tuệ trở thành tài sản chung của nhân loại được phục vụ rộng rãi cho cộng đồng. Về nguyên tắc, khi đối tượng SHTT còn đang trong thời hạn bảo hộ thì chủ sở hữu có quyền sử dụng độc quyền đối tượng đó và ngăn không cho những chủ thể khác xâm phạm đến đối tượng đã được bảo hộ của mình, trừ các trường hợp ngoại lệ do luật định (Điều 25, 26, 32, 33, 133, 145, 146 Luật SHTT). Mặt khác, trên thực tế đã có trường hợp bên A bị xâm phạm quyền SHTT (vẫn đang được bảo hộ) nhưng lại không bị xử lý vì hết thời hiệu khởi kiện. Quyền của chủ sở hữu tài sản trí tuệ đã không được bảo hộ một cách trọn vẹn đúng như ý nghĩa của quy định về thời hạn bảo hộ. Thiết nghĩ, nếu pháp luật đã quy định về thời hạn bảo hộ cho các đối tượng SHTT thì vấn đề thời hiệu khởi kiện liên quan cũng cần được quy định phù hợp. Thứ hai, Tài sản trí tuệ là tài sản vô hình Đối với tài sản thông thường, chủ sở hữu sẽ có 03 quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Trong khi đó quyền chiếm hữu trong SHTT lại rất mờ nhạt và gần như không tồn tại, bởi chúng ta không thể nắm bắt, chiếm hữu ý tưởng, kiến thức được, ngoại trừ một số trường hợp liên quan đến bí mật kinh doanh, các công thức, danh sách… Khi một đối tượng SHTT thuộc quyền sở hữu của một chủ thể nhất định, hành vi trực tiếp khai thác giá trị lợi ích, thể hiện rõ nhất quyền sở hữu chính là hành vi sử dụng độc quyền đối tượng đó. Tuy nhiên SHTT đặc biệt ở chỗ những chủ thể khác khi thực hiện hành vi xâm phạm không nhất thiết phải “chiếm hữu riêng” đối tượng SHTT cho mình. Điều này có nghĩa là ngay cả khi chủ sở hữu đang thực hiện hành vi sử dụng đối tượng thì chủ thể vi phạm vẫn thực hiện hành vi xâm phạm của mình và sự vi phạm này là vi phạm về tính “độc quyền” mà chủ thể có quyền được pháp luật ghi nhận. Với cách quy định tại Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP và sau này là Nghị quyết 03/2012/ NQ-HĐTP, các tranh chấp dân sự không áp dụng thời hiệu khởi kiện có bao gồm trường hợp “Tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu là tranh chấp về tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của mình nhưng do người khác quản lý, chiếm hữu tài sản đó”. Và vì xâm phạm SHTT không nhất thiết phải nắm giữ đối tượng đó, nên nếu có một bên B nào đó đang sử dụng đối tượng SHTT đang được bảo hộ của bên C, thì bên C có được Tòa bảo vệ? Lý luận theo quy định này, một khi có chủ thể khác không phải là chủ sở hữu đang quản lý, chiếm hữu tài sản thuộc quyền sở hữu của mình thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Nghĩa là chừng nào mà chủ thể vi phạm còn có hành vi chiếm giữ bất hợp pháp (hành vi xâm phạm) thì chủ thể bị vi phạm vẫn có thể khởi kiện mà không cần xem xét đến thời hiệu khởi kiện. Áp dụng như thế này có vẻ hợp lý hơn cho các đối tượng SHTT, vì như đã nói ở trên, bảo hộ SHTT là bảo hộ có thời hạn và trong thời hạn này sự bảo hộ nên là tuyệt đối. Tất nhiên, việc bảo hộ sẽ chấm dứt khi hết thời hạn bảo hộ và sau thời hạn này các quyền tài sản của chủ sở hữu sẽ chấm dứt theo quy định. Tóm lại, với những đặc trưng riêng có của mình, các đối tượng quyền SHTT đòi hỏi sự xem xét một cách đặc biệt hơn, phù hợp hơn khi áp dụng. Để giải quyết vấn đề này, nên chăng có thêm quy định riêng biệt về thời hiệu khởi kiện trong lĩnh vực SHTT, chẳng hạn như quy định thời hiệu khởi kiện về quyền SHTT theo “thời hạn bảo hộ” đối với các đối tượng quyền SHTT có quy định thời hạn bảo hộ (như quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, nhãn hiệu thông thường, kiểu dáng công nghiệp…); còn đối với các đối tượng quyền SHTT không quy định thời hạn bảo hộ (như nhãn hiệu nổi tiếng, bí mật kinh doanh, tên thường mại…) thì theo hướng “không áp dụng thời hiệu khởi kiện”.
Hỏi về vi phạm thời hiệu khởi kiện
Kính gửi luật sư, nhờ luật sư giải đáp giúp tôi vấn đề sau: Chị A có mượn tôi một khoản tiền, ngày mượn là ngày 13/9/2015 đến nay đã là 34 tháng mà chị không trả cho tôi đồng nào, tôi đã làm đơn kiện ở tòa án sơ thẩm, giấy nợ của tôi không ghi thời hạn trả nợ, nhưng khi tôi viết giấy thông báo đòi nợ, tôi yêu cầu chị phải trả cho tôi cả gốc lẫn lãi từ ngày 13/9/2015 cho đến nay thì tôi có vi phạm thời hiệu khởi kiện không? (trước ngày 1/7/2016 thời hiệu khởi kiện là 2 năm ) . Nếu vi phạm thời hiệu khởi kiện thì bị đình chỉ vụ án phải không. Tòa án đa hòa giải 2 lần, tòa còn hòa giải lần thứ 3 nữa. Nếu vì yêu cầu tính lãi từ ngày 13/9/2015 đến nay là vi phạm thời hiệu khởi kiện thì tôi phải làm thế nào để tòa án giải quyết.
HỎI VỀ THỜI HIỆU KHỎI KIỆN CÓ BỊ TÒA ÁN HỦY ĐƠN KIỆN
Kính thưa luật sự: tôi có một vấn đề rất mong muốn được luật sư tư vấn và giải đáp giúp. Chị A có mượn tôi một khoản tiền, ngày mượn là 13/9/2015 đến nay đã là 34 tháng mà chị vẫn không trả đồng nào và cố tình trốn tránh không chịu hoàn thành nghĩa vụ trả nợ nên tôi đã gửi đơn khởi kiện, trong giấy nợ không có ghi thời hạn trả nợ nên tôi đã viết giấy thông báo đòi nợ và gửi bằng đường bưu điện. Vậy xin luật sư hãy giải đáp giúp tôi vấn đề sau: Theo tôi được biết phát sinh mâu thuẫn trước ngày mùng 1 tháng 1 2017 thì áp dụng theo bộ luật dân sự 2004 phải không .thời hiệu khởi kiện là 2 năm . vậy vụ án của tôi mượn từ ngày 13 tháng 9 năm 2015 đến nay là 34 tháng. vậy vụ án của tui đã quá thời hiệu khởi kiện phải không. khi đã quá thời hiệu khởi kiện nhưng tôi vẫn đòi lấy Cả vốn lẫn lãi thì tôi có vi phạm vào luật khởi kiện hay không và có bị Tòa án hủy án hay không. Và nếu bị tòa án hủy đơn thì làm thế nào để tòa án không hủy đơn của tôi. Xin luật sư tư vấn giúp, Xin chân thành cám ơn.
Kính gửi luật sư, Tôi có mua cổ phần ở một công ty, hiện nay giám đốc không trả cổ tức cho tôi với lý do hồ sơ cổ phần của tôi mất cổ phiếu của người bán cổ phần cho tôi. Tôi kiện công ty ra tòa. Trong khi chờ Tòa xét xử buộc công ty phải công nhận tôi là cổ đông, nếu quá hạn kiện đòi cổ tức thì phải giải quyết thế nào? Cám ơn luật sư