Cụ thể về mức dự trữ quốc gia một số mặt hàng chiến lược, thiết yếu đến năm 2030 sẽ thực hiện như sau:
- Lương thực: Đến năm 2025 giữ mức dự trữ tồn kho cuối năm khoảng 250.000 tấn (quy gạo).
Giai đoạn 2026 - 2030, căn cứ tình hình thực tế để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định mức mua tăng hàng năm phù hợp.
- Vật tư, thiết bị cứu hộ, cứu nạn: Mức dự trữ đáp ứng yêu cầu phòng, chống, ứng phó sự cố thiên tai, dịch bệnh và tìm kiếm, cứu nạn của các bộ, ngành, địa phương.
- Muối ăn: Sử dụng lượng tồn kho hiện nay để xuất cấp cứu trợ, hỗ trợ cho nhân dân khi có tình huống đột xuất, cấp bách xảy ra hoặc xuất giảm theo quyết định của cấp có thẩm quyền; trong giai đoạn tới không bố trí kế hoạch mua tăng, mua bù muối ăn.
- Các mặt hàng phục vụ quốc phòng, an ninh: Tăng cường dự trữ quốc gia các mặt hàng chiến lược, tiên tiến, hiện đại với mức bố trí kinh phí hàng năm tăng cao hơn mức bình quân của toàn ngành, đảm bảo yêu cầu tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh...
- Các mặt hàng dự trữ quốc gia phục vụ nông nghiệp: Mức dự trữ đáp ứng yêu cầu cơ bản về phòng, chống, khắc phục hậu quả của thiên tai, dịch bệnh, ổn định sản xuất của nhân dân.
- Xăng dầu: Đến năm 2030 phấn đấu tăng dần mức dự trữ quốc gia lên khoảng 800 ngàn m3 đối với sản phẩm xăng dầu và 1.000 - 2.000 ngàn tấn đối với dầu thô, tương đương 15-20 ngày nhập ròng, trong đó:
Tiếp tục tập trung hoàn thiện hệ thống quy định của pháp luật về quản lý xăng dầu dự trữ quốc gia; trên cơ sở đó, tăng dần mức dự trữ quốc gia phù hợp với hạ tầng phục vụ dự trữ quốc gia về xăng dâu được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt...
- Các mặt hàng y tế: Mức dự trữ đảm bảo chủ động đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch bệnh, các tình huống khẩn cấp về y tế và nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
- Đối với các mặt hàng phục vụ đảm bảo giao thông, vận tải, phát thanh truyền hình: Mức dự trữ quốc gia thực hiện theo yêu cầu nhiệm vụ của từng ngành, lĩnh vực đến năm 2030.
Quyết định 305/QĐ-TTg có hiệu lực kể từ ngày ký.