Người tố giác tội phạm có quyền khiếu nại quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng hay không? (Hình từ internet)
Về vấn đề này, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT giải đáp như sau:
Theo Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm; cơ quan, tổ chức đã báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố có quyền:
- Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa;
- Được thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định nêu trên phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm, trình bày trung thực về những tình tiết mà mình biết về sự việc.
Như vậy, theo quy định nêu trên, người tố giác tội phạm có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Tại Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định người tham gia tố tụng bao gồm:
- Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
- Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
- Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
- Người bị bắt.
- Người bị tạm giữ.
- Bị can.
- Bị cáo.
- Bị hại.
- Nguyên đơn dân sự.
- Bị đơn dân sự.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
- Người làm chứng.
- Người chứng kiến.
- Người giám định.
- Người định giá tài sản.
- Người phiên dịch, người dịch thuật.
- Người bào chữa.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố.
- Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
- Khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại do việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp dụng những biện pháp sau đây để bảo vệ họ:
+ Bố trí lực lượng, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và các phương tiện khác để canh gác, bảo vệ;
+ Hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để bảo đảm an toàn cho họ;
+ Giữ bí mật và yêu cầu người khác giữ bí mật các thông tin liên quan đến người được bảo vệ;
+ Di chuyển, giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập; thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân dạng của người được bảo vệ, nếu được họ đồng ý;
+ Răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ; ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm hại theo quy định của pháp luật;
+ Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.
- Việc áp dụng, thay đổi các biện pháp bảo vệ nêu trên không được làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ.
Như vậy, khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại do việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp dụng những biện pháp bảo vệ họ.
(Điều 486 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015)