TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TH - TỈNH B
BẢN ÁN 06A/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Trong ngày 12/01/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Th - tỉnh B. Toà án nhân dân huyện Th mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 106/2022/TLST-HS ngày 05/12/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 112/2022/QĐXXST-HS ngày 26/12/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2023/HSST-QĐ ngày 09/01/2023, đối với các bị cáo:
1. ĐỖ VIẾT H, sinh năm 2001.
Trú tại: Thôn Y - xã Ng - huyện Th - tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Viết L, sinh năm 1974 và bà Đỗ Thị H, sinh năm 1975; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/3/2022 đến ngày 28/3/2022 được hủy bỏ biện pháp “Tạm giữ” và thay thế bằng “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
2. ĐỖ VIẾT Đ, sinh năm 1998.
Trú tại: Thôn Y - xã Ng - huyện Th - tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Viết C, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1974; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/3/2022 đến ngày 28/3/2022 được hủy bỏ biện pháp “Tạm giữ” và thay thế bằng “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
3. ĐỖ HỒNG TH, sinh năm 2003.
Trú tại: Thôn Y - xã Ng - huyện Th - tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Viết T, sinh năm 1980 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1981; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/3/2022 đến ngày 28/3/2022 được hủy bỏ biện pháp “Tạm giữ” và thay thế bằng “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
4. ĐỖ VĂN Đ, sinh năm 2001.
Trú tại: Thôn P - xã Ng - huyện Th - tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Văn Th, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1976; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/3/2022 đến ngày 28/3/2022 được hủy bỏ biện pháp “Tạm giữ” và thay thế bằng “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
5. NGUYỄN VĂN S, sinh ngày 25/8/2005.
Trú tại: Thôn Đ - xã Ng - huyện Th - tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1978 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1980; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn S: Ông NGUYỄN VĂN T, sinh năm 1978 và bà NGUYỄN THỊ H, sinh năm 1980 (Là bố mẹ đẻ của bị cáo Nguyễn Văn S).
Cùng trú tại: Thôn Đ - xã Ng - huyện Th - tỉnh B. Ông Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị H có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn S: Ông NGUYỄN VĂN H - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước Sở tư pháp tỉnh B. Có mặt tại phiên tòa.
- Đại diện Ủy ban nhân dân xã Ng - huyện Th - tỉnh B nơi bị cáo Nguyễn Văn S cư trú: Ông NGUYỄN THANH T - Chức vụ: Chủ tịch. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Anh LÊ SỸ Đ, sinh ngày 25/4/2004.
Trú tại: Thôn C - xã N - huyện Th - tỉnh B. Vắng măt tại phiên tòa.
+ Anh NGUYỄN ĐẮC M, sinh ngày 24/12/2004.
Trú tại: Thôn B - xã N - huyện Th - tỉnh B Vắng măt tại phiên tòa.
+ Anh NGUYỄN VĂN H, sinh năm 1989.
+ Ông NGUYỄN VĂN B, sinh năm 1956.
+ Bà NGUYỄN THỊ M, sinh năm 1954.
Cùng trú tại: Phố M, thôn Th - xã Th - huyện Th - tỉnh B. Đều vắng mặt tại phiên tòa.
+ Cháu NGUYỄN ĐẮC Đ, sinh ngày 20/3/2005.
Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Đắc Đ: Anh NGUYỄN ĐẮC Q, sinh năm 1982 và chị TẠ THỊ V, sinh năm 1981 (Là bố, mẹ đẻ của cháu Nguyễn Đắc Đ).
Cùng trú tại: Thôn Y - xã Ng - huyện Th - tỉnh B. Đều vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do Nguyễn Đắc Đ, sinh ngày 20/3/2005; trú tại: Thôn Y - xã Ng - huyện Th - tỉnh B và Nguyễn Đình L, sinh ngày 05/3/2004; trú tại: Thôn Đ - xã X - huyện Th - tỉnh B đều là học sinh Trường trung học phổ thông Thuận thành II có địa chỉ tại: Xã Th - huyện Th - tỉnh B có mâu thuẫn với nhau vào ngày 17/3/2022. Vì vậy, Đắc Đ nói cho Đỗ Viết H, sinh năm 2001 ở cùng thôn (Là chú họ của Đắc Đ) biết, đồng thời nhờ H hòa giải hộ. Còn L nói cho bạn là Lê Sỹ Đ, sinh ngày 25/4/2004; trú tại: Thôn C - xã N - huyện Th - tỉnh B biết về việc Đắc Đ và L xảy ra mâu thuẫn với nhau. Sau đó, H sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S lắp sim số 0347.243.X của H đăng nhập vào tài khoản Facebook có tên “Hiếu Binn” nhắn tin đến tài khoản Facebook có tên “Lê Đạt” được cài đặt trong điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S lắp sim số 0867.507.X của Sỹ Đ nhắn tin hòa giải nhưng Sỹ Đ không đồng ý mà thách thức và hẹn H đúng 10 giờ 00 phút ngày 19/3/2022 gặp đánh nhau ở cổng Trường trung học phổ thông Thuận Thành II thì H đồng ý. Khoảng 21 giờ 00 ngày 18/3/2022, H nhắn tin từ tài khoản Facebook “Hiếu Binn” của H đến tài khoản Facebook có tên “Đại Còi” được cài đặt trong điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 màu xám, lắp sim số 0868.445.671 của Đỗ Viết Đ, sinh năm 1998 ở cùng thôn rủ Đ đúng 10 giờ 00 phút ngày 19/3/2022 đến cổng Trường trung học phổ thông Thuận Thành II đánh nhau và bảo Đ mang hung khí đi, Đ đồng ý và bảo H khi nào đi thì đến nhà đón Đ. Tiếp đó, H nhắn tin đến tài khoản Facebook có tên “Đỗ Văn Đạt” được cài đặt trong điện thoại di động nhãn hiệu iPhone XsMax lắp sim số 0342.925.X của Đỗ Văn Đ, sinh năm 2001; trú tại: thôn P - xã Ng - huyện Th - tỉnh B (Là bạn quen biết xã hội của Hiếu) rủ Đ vào lúc 10 giờ 00 phút ngày 19/3/2022 đến cổng Trường trung học phổ thông Thuận Thành II đánh nhau và bảo Văn Đ mang theo dao cũng như rủ thêm người đi cùng. Văn Đ đồng ý và bảo với H là không có dao. Vì vậy, Hiếu gọi điện bảo Đắc Đ cho H mượn gậy bóng chày nhưng Đắc Đ nói không có và bảo H hỏi Nguyễn Văn Ng, sinh năm 2002 ở cùng thôn (Do Đắc Đ biết Ng có gậy bóng chày). Sau đó, H sử dụng tài khoản Facebook tên “Hiếu Binn” nhắn tin đến tài khoản Facebook có tên “Nguyễn Văn Nghĩa” của Ng hỏi mượn gậy bóng chày và rủ Ng ngày 19/3/2022 đi đánh nhau, nhưng Ng bảo bận đi làm nên không đi và bảo H đến nhà Ng lấy. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 19/3/2022, H nhắn tin đến tài khoản Facebook có tên “Thoan Bin” được cài đặt trong điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 của Đỗ Hồng Th, sinh năm 2003 ở cùng thôn rủ Th vào lúc 10 giờ 00 phút ngày 19/3/2022 đến cổng Trường trung học phổ thông Thuận Thành II đánh nhau và hẹn Th đi ra đầu thôn Y để H đón thì Th đồng ý. Tiếp đó, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 99F1-X đi đến nhà Ng thì được Nguyễn Văn B, sinh ngày 13/7/2007 (Là em trai của Ng) đưa cho H mượn 01 gậy bóng chày bằng kim loại màu đen dài 71cm, trên thân gậy có nhiều vết han rỉ, phần tay cầm của gậy thon gọn được quấn băng dính màu đen đường kính 03cm, phần thân gậy đường kính 06cm. H cầm gậy bóng chày cất vào trong cốp xe, rồi điều khiển xe đến đón Đ và bảo Đ lấy 01 con dao tự chế (Dạng thanh đao) dài 83cm, chuôi bằng gỗ dài 27,5cm, đường kính 2,5cm, lưỡi dao bằng kim loại, một cạnh sắc nhọn về phía đầu dài 56cm, chỗ rộng nhất 5,5cm của nhà Đ mang đi cho vào cốp xe của H rồi đi đến đầu thôn Y đợi Th. Khi H và Đ vừa đến đầu thôn Y thì gặp Đỗ Viết Đ, sinh năm 2001 ở cùng thôn điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 99F1-X (Đang trên đường đến thị trấn H - huyện Th - tỉnh B để lấy ảnh cưới) đi đến, lúc này Th cũng đi bộ đến. Sau đó, H rủ tất cả đến quán ăn ở đầu thôn Đ - xã Ng - huyện Th - tỉnh B ăn sáng. Tại đây, Hiếu gọi điện qua Messenger cho Đỗ Văn Đ mời Đ đến thôn Đ ăn sáng. Lúc này, Văn Đ đang cùng với Đỗ Trọng T, sinh ngày 12/11/2005 (Là cháu họ của Văn Đ ở cùng thôn) và Nguyễn Văn S, sinh ngày 25/8/2005; trú tại: Thôn Đ - xã N - huyện Th - tỉnh B (Là bạn quen biết xã hội Văn Đ) ăn sáng ở Phố C - xã Tr - huyện Th - tỉnh B. Do không có xe để đi và thấy S có đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 99F1-X nên Văn Đ đã rủ S và T đi cùng thì được S và T đồng ý. Sau đó, S điều khiển xe mô tô chở T và Văn Đ đến quán ăn sáng ở thôn Đ gặp nhóm của H. Trong lúc ăn sáng, H bảo cả nhóm lát nữa đến cổng Trường trung học phổ thông Thuận Thành II đánh Lê Sỹ Đ thì mọi người đều đồng ý.
Đến khoảng 10 giờ 00 phút 19/3/2022, sau khi ăn sáng xong H bảo với cả nhóm đến quán nước đối diện với cổng Trường trung học phổ thông Thuận Thành II để đợi Sỹ Đ tan học ra thì đánh, đồng thời bảo cả nhóm: Nếu Sỹ Đ đi cùng bạn mà chống trả lại thì mọi người mới lao vào đánh, còn nếu Sỹ Đ đi một mình thì chỉ một mình H đánh thì tất cả đều đồng ý. Khi đến quán nước, Viết Đ sinh năm 2001 không vào uống nước mà điều khiển xe mô tô của mình đi đến thị trấn H - huyện Th - tỉnh B lấy ảnh cưới rồi đi về nhà và không quay lại quán nước nữa. Trong lúc ngồi uống nước, H nhắn tin hỏi Đắc Đ giờ nào Sỹ Đ tan học, Đắc Đ bảo khoảng 01 tiếng nữa. Nhưng đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, khi trường học vẫn chưa tan học thì Sỹ Đ điều khiển xe gắn máy nhãn hiệu Honda Cub biển kiểm soát 99AF-X chở Nguyễn Đắc M, sinh ngày 14/12/2004; trú tại: Thôn B - xã Ng - huyện Th - tỉnh B (Là bạn học cùng lớp với Sỹ Đ) đi từ trong Trường trung học phổ thông Thuận Thành II ra ngoài rồi rẽ phải đi theo đường Quốc lộ 17 hướng về ngã tư D - xã Th - huyện Th - tỉnh B. Do Th biết mặt Sỹ Đ nên H hỏi lại Th để xác nhận đó có phải là Sỹ Đ không thì Th trả lời “Phải”. Vì vậy, H hô to “Đuổi theo nó, nó kia kìa” đồng thời điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 99F1-X chở Th và Đ đuổi theo, Văn Đ cũng điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 99F1-X của S chở S đuổi theo đi phía sau xe của H, còn T không tham gia đuổi mà ở lại tại quán nước. Khi H đuổi theo được khoảng 500m đến đoạn đường Quốc lộ 17 thuộc địa phận phố M, thôn Th - xã Th - huyện Th - tỉnh B thì đuổi kịp xe của Sỹ Đ. H điều khiển xe áp sát xe của Sỹ Đ rồi vượt lên chặn đầu xe của Sỹ Đ. Lúc này, xe của Sỹ Đ dừng lại thì Hiếu hỏi “Mày có phải Sỹ Đ không”, Sỹ Đ trả lời “Phải” thì H dơ tay phải lên đấm 01 cái về phía Sỹ Đ, Sỹ Đ tránh được nên không trúng. Sau đó, Sỹ Đ và M do hoảng sợ nên đã bỏ xe mô tô trên đường rồi chạy lên vỉa hè thì H, Th và Đ cũng xuống xe, H mở cốp xe lấy gậy bóng chày cầm trên tay phải, Đ lấy thanh đao cầm trên tay phải rồi cùng Th chạy đuổi theo Sỹ Đ để đánh. Mh thấy nhóm của H đuổi theo Sỹ Đ nên không chạy nữa mà đi chậm lại. Lúc này, H cầm gậy bóng chày ném về phía Sỹ Đ nhưng không trúng, gậy văng xuống vỉa hè sau đó nảy lên đập vào sườn bên phải xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios biển kiểm soát 99A-X của anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1989; trú tại: Phố M, thôn Th - xã Th - huyện Th - tỉnh B đang đỗ trên vỉa hè trước cửa nhà anh H rơi xuống đường. Thấy vậy, Th chạy đến cầm gậy bóng chày và tiếp tục đuổi theo Sỹ Đ. Khi Sỹ Đ chạy được một đoạn (Khoảng 30m) thì H đuổi kịp dùng tay túm được chiếc ba lô Sỹ Đ đang đeo trên lưng làm ba lô rơi xuống vỉa hè, còn Sỹ Đ thoát ra được và tiếp tục bỏ chạy. H, Th và Đ tiếp tục đuổi theo Sỹ Đ, Sỹ Đ chạy vào trong lán trước cửa nhà của ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1956 (Là bố đẻ của anh H) thì bị H, Th và Đ đuổi kịp. H túm áo của Sỹ Đ rồi đẩy Sỹ Đ ngã xuống góc tường sát tủ nhôm kính của nhà ông B. Cùng lúc này, M chạy vào thì thấy Sỹ Đ đang ngồi ở góc tường hai tay ôm đầu, Th cầm gậy bóng chày, Đ cầm thanh đao đứng áp sát hai bên không cho Sỹ Đ bỏ chạy, còn H dùng chân phải đạp 01 cái trúng vào vai phải của Sỹ Đ, đạp 01 cái về phía mặt của Sỹ Đ nhưng không trúng mà trúng vào cánh cửa bên phải của tủ nhôm kính làm vỡ kính. Sau đó, Đ đưa thanh đao cho H, H cầm thanh đao vụt ngang lưỡi đao 01 cái vào lưng của Sỹ Đạt, Sỹ Đ vùng dậy bỏ chạy được ra vỉa hè thì H, Th và Đ tiếp tục đuổi theo. M lúc này cũng chạy theo để can ngăn, khi M vừa chạy ra vỉa hè thì Văn Đ điều khiển xe mô tô chở S đi đến. Văn Đ nhẩy xuống xe chạy đến chỗ Th giằng gậy bóng chày trên tay của Th rồi vụt 01 cái về phía M, M dơ tay trái lên đỡ thì bị vụt trúng vào tay nên M bỏ chạy, Sáng lúc này vẫn ngồi trên xe. Sau đó, được mọi người vào can ngăn thì H cầm thanh đao, điều khiển xe mô tô chở Đ và Th đi về. Văn Đ cầm gậy bóng chày, điều khiển xe mô tô chở S quay lại quán nước đối diện cổng Trường trung học phổ thông Thuận Thành II đón T rồi đi về.
Ngày 19/3/2022, Lê Sỹ Đ làm đơn trình báo Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th, đồng thời giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S lắp sim số 0867.507.X để phục vụ công tác điều tra. Cùng ngày, ông Đỗ Viết L, sinh năm 1974 (Là bố đẻ của Đỗ Viết H) đã tự giác giao nộp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 99F1-X để phục vụ điều tra.
Ngay sau khi nhận được tin báo, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, xác định: Hiện trường nơi xảy ra sự việc là đoạn đường Quốc lộ kéo dài từ cổng trường trung học phổ thông Thuận Thành II đến đoạn đường và vỉa hè trước nhà của ông Nguyễn Văn B, sinh 1956 thuộc phố M, thôn Th - xã Th - huyện Th - tỉnh B có chiều dài khoảng 500m. Đường chạy hướng Đông - Tây, phía Đông hướng đi huyện G, phía Tây hướng đi thành phố H, phía Bắc giáp khu dân cư thôn Th, phía Nam giáp Trường tiểu học xã Th. Quá trình khám nghiệm hiện trường phát hiện:
01 xe gắn máy nhãn hiệu Honda Cub biển kiểm soát 99AF-X dựng trên lòng đường phía Bắc.
01 xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios màu đen, biển kiểm soát 99A-X đỗ trên vỉa hè phía Bắc, trước cửa nhà ông Nguyễn Văn B. Kiểm tra xe phát hiện tại cánh cửa sau bên phải xe có 01 vết lõm kim loại kích thước (15x20)cm, thấp nhất cách mặt đỗ xe 92cm, tâm vết cách đuôi xe 1,6m.
01 cặp da (Dạng ba lô) màu đen kích thước (45x38x13)cm ở phía Đông của xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios màu đen, biển kiểm soát 99A-X. Bên trong cặp phát hiện 01 gậy rút ba khúc hình trụ tròn dài nhất 63cm, tay cầm bằng cao su màu đen, thân gậy bằng kim loại, đường kính rộng nhất 1,5cm.
01 tủ nhôm kính hình hộp chữ nhật 03 tầng đựng đồ kích thước (1,25x1,2x0,4)m kê sát tường phía Tây của lán nhà ông Nguyễn Văn B. Tủ có hai cánh cửa kính (Loại kính trong suốt, dày 05mm), kéo sang ngang, kích thước mỗi cánh là (60x105)cm. Kiểm tra phát hiện cánh cửa bên phải, phần trên cùng bên phải bị vỡ mất góc kích thước (40x38)cm. Tấm kính sườn phải tủ bị vỡ dạng nứt toàn bộ.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã tạm giữ 01 cặp da màu đen, 01 gậy rút bên trong chiếc cặp da và 01 xe gắn máy như đã nêu trên. Tiến hành rà soát Camera xung quanh hiện trường xảy ra vụ việc đã phát hiện Camera của nhà chị Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1998; trú tại: Phố M, thôn Th - xã Th - huyện Th - tỉnh B có ghi lại một phần nội dung vụ việc các đối tượng đuổi đánh Sỹ Đ ngày 19/3/2022 tại đường Quốc lộ 17 thuộc phố M, thôn Th - xã Th - huyện Th - tỉnh B, sau đó tiến hành thu giữ và lưu trong 01 đĩa DVD.
Tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của Lê Sỹ Đ vào ngày 19/3/2022, xác định: 01vết xước bầm tím, kéo dài từ phía sau bả vai bên trái diện (20x6)cm, hình cánh cung, điểm đầu cách hốc lách bên trái 07cm, điểm cuối cách hốc lách bên trái 12cm.
Tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của Nguyễn Đắc M vào ngày 19/3/2022, xác định: Không có dấu vết gì.
Ngày 19/3/2022, Ban quản lý thôn Th và Công an xã Th - huyện Th có công văn gửi Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th về việc khoảng 10 giờ 30 phút ngày 19/3/2022 có một số đối tượng điều khiển xe mô tô, cầm gậy bóng chày, đao tự chế đuổi đánh nhau tại đường Quốc lộ 17 đoạn thuộc phố M, thôn Th - xã Th - huyện Th - tỉnh B gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an trên địa bàn, đồng thời đề nghị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Trong các ngày 19, 20/3/2022 và 13/9/2022 Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ, Đỗ Văn Đ, Đỗ Hồng Th và Nguyễn Văn S đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đầu thú khai báo sự việc. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã thu giữ của H 01 thanh đao tự chế dài 83cm, chuôi bằng gỗ dài 27,5cm, đường kính 2,5cm, lưỡi đao bằng kim loại dài 56cm, chỗ rộng nhất 5,5cm, đầu nhọn và 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S lắp sim số 0347.243.X; thu giữ của Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 màu xám, lắp sim số 0868.445.671; thu giữ của Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone XsMax lắp sim số 0342.925.X và 01 gậy bóng chày bằng kim loại màu đen dài 71cm, trên thân gậy có nhiều vết han rỉ, phần tay cầm của gậy thon gọn được quấn băng dính màu đen đường kính 03cm, phần thân gậy đường kính 06cm.
Ngày 20/3/2022, Nguyễn Đắc Đ khi đến làm việc tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 Plus lắp sim số 0353.435.X để phục vụ công tác điều tra.
Với nội dung như trên, bản Cáo trạng số: 113/CT-VKSTT ngày 30/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Th đã truy tố các bị cáo: Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ, Đỗ Hồng Th và Đỗ Văn Đ về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa các bị cáo: Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ, Đỗ Hồng Th, Đỗ Văn Đ và Nguyễn Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai nhận tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th. Các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Th đã truy tố đối với các bị cáo.
Cũng tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Th thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm vẫn giữ nguyên quyết định của Viện kiểm sát nhân dân huyện Th đã truy tố đối với các bị cáo: Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ, Đỗ Hồng Th, Đỗ Văn Đ và Nguyễn Văn S. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo: Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ, Đỗ Hồng Th, Đỗ Văn Đ và Nguyễn Văn S phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm o khoản 1 Điều 52 và Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đỗ Viết H từ 30 tháng đến 32 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng tính ngày tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đỗ Viết Đ từ 26 tháng đến 28 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là từ 52 tháng đến 56 tháng tính ngày tuyên án sơ thẩm.
Xử phạt các bị cáo: Đỗ Hồng Th và Đỗ Văn Đ mỗi bị cáo từ 24 tháng đến 26 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là từ 48 tháng đến 52 tháng tính ngày tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 và Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 04 tháng đến 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng tính ngày tuyên án sơ thẩm.
Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu, tiêu hủy 01 con dao tự chế (Dạng thanh đao), 01 gậy bóng chày bằng kim loại màu đen, 01 gậy rút ba khúc hình trụ tròn, 01 thẻ sim điện thoại số 0347.243.X, 01 thẻ sim điện thoại số 0868.445.671 và 01 thẻ sim điện thoại số 0342.925.X.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S, 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 màu xám và 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone XsMax.
Trả lại cho Lê Sỹ Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S lắp sim số 0867.507.X và Nguyễn Đắc Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 Plus lắp sim số 0353.435.X.
Lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD ghi lại một phần nội dung vụ việc xảy ra vào ngày 19/3/2022.
Trong phần tranh luận, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Th công bố bản luận tội. Người bào chữa cho bị cáo vị thành niên, các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo vị thành niên không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo, cho các bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương để các bị cáo có điều kiện tu dưỡng, rèn luyện thành người người công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay. Thể hiện: Do được Nguyễn Đắc Đ nhờ nên vào ngày 18/3/2022, Đỗ Viết H nhắn tin cho Lê Sỹ Đ để hòa giải mâu thuẫn giữa Đắc Đ và Nguyễn Đình L (L là bạn của Lê Sỹ Đ). Nhưng do Sỹ Đ không hòa giải mà còn thách thức nên giữa H và Sỹ Đ xảy ra mâu thuẫn. Sỹ Đ và H nhắn tin chửi nhau trên Facebook, đồng thời hẹn nhau 10 giờ 00 phút ngày 19/3/2022 đến cổng Trường trung học phổ thông Thuận Thành II để đánh nhau. Sau đó, H rủ Đỗ Hồng Th, Đỗ Văn Đ và Đỗ Viết Đ đi đánh Sỹ Đ thì tất cả đều đồng ý. Khi Đỗ Văn Đ đến thì có Nguyễn Văn S (Là bạn đi cùng Văn Đ) nên H rủ thêm S đi cùng để đánh Sỹ Đ thì S cũng đồng ý. Vào lúc 10 giờ 00 phút ngày 19/3/2022, nhóm của H đi đến quán nước đối diện cổng Trường trung học phổ thông Thuận Thành II ngồi uống nước để đợi Sỹ Đ tan học ra thì đánh. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, H thấy Sỹ Đ điều khiển xe gắn máy nhãn hiệu Honda Cub chở Nguyễn Đắc M đi ra khỏi cổng trường, rẽ phải đi theo đường Quốc lộ 17 hướng về ngã tư D - xã Th - huyện Th - tỉnh B. Thấy vậy, Hiếu hô hào cả nhóm đuổi theo để đánh Sỹ Đ, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 99F1-X (Bên trong cốp xe có 01 con dao tự chế (Dạng thanh đao) và 01 gậy bóng chày) chở Th và Đ đuổi theo, còn Văn Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 99F1-X của Sáng chở Sáng đuổi theo đi phía sau xe của H. Khi Sỹ Đ điều khiển xe chở M bỏ chạy được khoảng 500m thì xe mô tô do H điều khiển đuổi kịp. H điều khiển xe áp sát xe của Sỹ Đ rồi vượt lên chặn đầu xe của Sỹ Đ. Hiếu dơ tay phải lên đấm 01 cái về phía Sỹ Đ, Sỹ Đ tránh được nên không trúng. Sỹ Đ và M sợ nên đã vứt xe mô tô trên đường rồi bỏ chạy lên vỉa hè. Thấy vậy, H cầm gậy bóng chày, Đ cầm thanh đao cùng Th chạy đuổi theo Sỹ Đ để đánh. Quá trình đuổi, H cầm gậy bóng chày ném về phía Sỹ Đ nhưng không trúng. Thấy vậy, Th chạy đến nhặt gậy bóng chày lên cầm trên tay đuổi theo Sỹ Đ. Khi Sỹ Đ bỏ chạy được khoảng 30m thì bị H đuổi kịp và túm được chiếc ba lô Sỹ Đ đang đeo trên lưng làm ba lô rơi xuống vỉa hè. H, Th, Đ tiếp tục đuổi theo Sỹ Đ, Sỹ Đ bỏ chạy vào trong lán trước cửa nhà ông Nguyễn Văn B thì bị H, Th, Đ đuổi kịp. H túm áo của Sỹ Đ rồi đẩy Sỹ Đ ngã xuống góc tường sát tủ nhôm kính của nhà ông B, Sỹ Đ ngồi dậy hai tay ôm đầu. Lúc này, Th cầm gậy bóng chày, Đ cầm thanh đao đứng áp sát hai bên để Sỹ Đ không bỏ chạy được, còn H dùng chân phải đạp 01 cái trúng vào vai phải của Sỹ Đ và đạp 01 cái về phía mặt của Sỹ Đ nhưng không trúng mà trúng cánh cửa bên phải của tủ nhôm kính làm vỡ kính. Sau đó, Đại đưa thanh đao cho H, H cầm thanh đao vụt ngang lưỡi đao 01 cái vào lưng của Sỹ Đ. Sỹ Đ đứng dậy bỏ chạy được ra vỉa hè thì H, Th, Đ tiếp tục đuổi theo. M cũng chạy theo để can ngăn, khi M đang chạy ở vỉa hè thì gặp Văn Đ điều khiển xe mô tô chở S đi đến. Văn Đ nhẩy xuống xe chạy đến chỗ Th giằng gậy bóng chày trên tay của Th rồi vụt 01 cái về phía M, M dơ tay trái lên đỡ thì bị vụt trúng vào tay nên M bỏ chạy. S lúc này vẫn ngồi trên xe mà không trực tiếp tham gia đánh nhau. Sau đó, được mọi người can ngăn nên nhóm của H đi về. Hậu quả, Sỹ Đ và M bị thương nhẹ có đơn xin từ chối giám định thương tích.
Bản thân các bị cáo: Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ, Đỗ Hồng Th và Đỗ Văn Đ khi thực hiện hành vi phạm đuổi đánh nhau đều đã trên 18 tuổi, riêng bị cáo Nguyễn Văn S tại thời điểm thực hiện hành vi đuổi đánh nhau đã được 16 năm 06 tháng 24 ngày tuổi. Các bị cáo đều có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định hành vi của các bị cáo: Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ, Đỗ Hồng Th và Đỗ Văn Đ đã phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự; hành vi của bị cáo Nguyễn Văn S đã phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật hình sự như bản Cáo trạng của Viên kiêm sat nhân dân huyện Th đa truy tô đối với các bị cáo là có căn cứ, chính xác, đung ngươi, đung tôi, đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh xã hội tại địa phương, có thể gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Do đó, cần phải xử phạt các bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra.
Đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn, quá trình thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công vai trò, nhiệm vụ cụ thể mà chỉ cố ý cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội. Trong vụ án này, bị cáo Đỗ Viết H không những trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội mà còn rủ rê, lôi kéo và chuẩn bị công cụ để thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Đỗ Viết Đ là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội và giúp sức tích cực cho bị cáo H khi chuẩn bị công cụ để thực hiện hành vi phạm tội. Còn các bị cáo: Đỗ Hồng Th, Đỗ Văn Đ và Nguyễn Văn S chỉ là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, bị cáo H phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với bị cáo Đ và các bị cáo khác, bị cáo Đ phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với các bị cáo còn lại.
Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng cũng như giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng: Trước khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo: Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ, Đỗ Hồng Th, Đỗ Văn Đ và Nguyễn Văn S đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
Bị cáo Đỗ Viết H là người giữ vai trò chính khi trực tiếp hẹn gặp Lê Sỹ Đ để đánh nhau. Không những vậy, bị cáo còn là người chuẩn bị gậy bóng chày để đi đánh nhau và có hành vi rủ rê, xúi giục các bị khác đặc biệt trong đó có bị cáo Nguyễn Văn S là người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra để giáo dục, cải tạo bị cáo nói chung và răn đe, phòng ngừa riêng. Tuy nhiên, cũng cần xem xét sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Thành đầu thú khai báo sự việc. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ rõ thái độ ăn năn, hối cải. Ngoài ra, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử bị cáo đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm khi tố giác hành vi phạm tội của người khác được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Thành xác nhận và đề nghị Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành xem xét đối với thành tích này của bị cáo trong quá trình xét xử. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét áp dụng khi lượng hình để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Các bị cáo: Đỗ Viết Đ, Đỗ Hồng T và Đỗ Văn Đ mặc dù không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng tham gia trong vụ án với vai trò tích cực khi đều trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Đỗ Viết Đ còn là người trực tiếp chuẩn bị con dao tự chế để đi đánh nhau. Tuy nhiên, sau khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo đều đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đầu thú khai báo sự việc. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo cũng đều đã thành khẩn khai báo và tỏ rõ thái độ ăn năn, hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng đối với bị cáo Đỗ Hồng Th còn có ông nội là ông Đỗ Viết M, bị cáo Đỗ Viết Đ còn có ông nội là ông Đỗ Viết K tham gia kháng chiếc chống Mỹ cứu nước được tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhì và Huân chương kháng chiến hạng Ba nên các bị cáo còn được hưởng thêm một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét áp dụng khi lượng hình để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Bị cáo Nguyễn Văn S cũng không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và chỉ tham gia trong vụ án với vai trò thứ yếu. Bản thân bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đầu thú khai báo sự việc. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ rõ thái độ ăn năn, hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Không những vậy, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo mới được 16 năm 06 tháng 24 ngày tuổi, nhận thức có phần bị hạn chế nên cần áp dụng các quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để xét xử đối với bị cáo. Hội đồng xét xử áp dụng khi lượng hình để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Xét thấy, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự lại có nơi cư trú ổn định, rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù có điều kiện cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo.
Liên quan trong vụ án: Đối với Nguyễn Đắc Đ là người nhờ bị cáo Đỗ Viết H hòa giải với Lê Sỹ Đ. Sau đó, quá trình hòa giải giữa bị cáo H và Sỹ Đ đã xảy ra mâu thuẫn và thách thức hẹn đánh nhau. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã xác định Đắc Đ không bảo bị cáo H đi đánh Sỹ Đ và không tham gia cùng nhóm của bị cáo H đuổi đánh Sỹ Đ. Khi bị cáo H hỏi mượn gậy bóng chày của Đắc Đ thì Đắc Đ bảo không có và bảo bị cáo H hỏi mượn Nguyễn Văn Ng. Tuy nhiên, Đắc Đ không bảo Ng cho bị cáo H mượn gậy bóng chày, bị cáo H có mượn được gậy bóng chày của Ng hay không thì Đắc Đ không biết. Bản thân bị cáo H cũng không thông báo lại cho Đắc Đ biết việc bị cáo H mượn được gậy bóng chày của Ng và không nói cho Đắc Đ biết việc bị cáo H mượn gậy bóng chày để làm gì. Bản thân Đắc Đ không biết bị cáo H rủ ai đi đánh Sỹ Đ và đánh Sỹ Đ như thế nào, khi nào và ở đâu. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th không xem xét xử lý đối với Đắc Đ là phù hợp.
Đối với Nguyễn Văn Ng theo lời khai của bị cáo Đỗ Viết H thì ngày 19/3/2022, bị cáo H có nhắn tin đến tài khoản Facebook “Nguyễn Văn Nghĩa” của Ng hỏi mượn gậy bóng chày và rủ Ng ngày 19/3/2022 đi đánh nhau nhưng Ng không tham gia. Mặc dù, Ng thừa nhận có cho bị cáo H mượn gậy bóng chày nhưng Ng không biết bị cáo H mượn gậy bóng chày để làm gì. Ng xác nhận bị cáo H không rủ Ng đi đánh nhau. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã tiến hành đối chất nhưng bị cáo H và Ng vẫn giữ nguyên lời khai của mình. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th không có căn cứ để xem xét xử lý đối với Ng.
Đối với Nguyễn Văn B là người được Nguyễn Văn Ng bảo lấy gậy bóng chày đưa cho bị cáo Đỗ Viết H mượn. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã xác định B không biết bị cáo H mượn gậy bóng chày để làm gì và bị cáo H cũng không nói cho B biết mục đích mượn gậy bóng chày là để đi đánh nhau. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th không xem xét xử lý đối với B là phù hợp.
Đối với Đỗ Trọng T, Đỗ Viết Đ sinh năm 2001: Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th xác định tại quán ăn sáng ở thôn Đ - xã Ng - huyện Th - tỉnh B, khi bị cáo Đỗ Viết H rủ đi đánh nhau thì T và Viết Đ, sinh năm 2001 đều đồng ý. Tuy nhiên, sau đó Viết Đ, sinh năm 2001 đi về trước không tham gia đánh nhau, còn T không tham gia đuổi đánh nhóm của Lê Sỹ Đ. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thu cũng không xem xét xử lý đối với T và Viết Đ, sinh năm 2001 là phù hợp.
Đối với Lê Sỹ Đ có hành vi tàng trữ 01 gậy rút ba khúc là vũ khí thô sơ nên đã bị Công an huyện Th ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền với số tiền 2.250.000 đồng về hành vi “Tàng trữ vũ khí thô sơ” theo quy định tại điểm b, khoản 4 Điều 7 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ là phù hợp. Bản thân Sỹ Đ cũng không có ý kiến gì đối với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nêu trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về trách nhiệm dân sự:
Đối với thương tích của Lê Sỹ Đ và Nguyễn Đắc M, trong quá trình điều tra Sỹ Đ và M đã từ chối giám định thương tích và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường. Tại phiên tòa hôm nay, Sỹ Đ và M vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt đồng thời không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.
Đối với hư hỏng của chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios màu đen, biển kiểm soát 99A-X của anh Nguyễn Văn H và hư hỏng của chiếc tủ kính của vợ chồng ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Thị M. Quá trình điều tra, anh H, ông B và bà M không đề nghị định giá và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường. Tại phiên tòa hôm nay, anh H, ông B và bà M vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt đồng thời không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường. Do đó, Hội đồng xét xử cũng không đề cập xem xét.
[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S lắp sim số 0347.243.X, 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 màu xám, lắp sim số 0868.445.671 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone XsMax lắp sim số 0342.925.X. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã xác định các bị cáo: Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ và Đỗ Văn Đ sử dụng những chiếc điện thoại này để liên lạc rủ nhau đi đánh nhau. Hội đồng xét xử thấy rằng, những chiếc điện thoại là phương tiện các bị cáo dùng để liên lạc rủ nhau đi thực hiện hành vi phạm tội, còn giá trị sử dụng nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01 con dao tự chế (Dạng thanh đao) dài 83cm, chuôi bằng gỗ dài 27,5cm, đường kính 2,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 56cm, chỗ rộng nhất 5,5cm, đầu nhọn và 01 gậy bóng chày bằng kim loại màu đen dài 71cm, trên thân gậy có nhiều vết han rỉ, phần tay cầm của gậy thon gọn được quấn băng dính màu den, đường kính 03cm, phần thân gậy đường kính 06cm. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã là rõ các bị cáo đã sử dụng làm công cụ để thực hiện hành vi phạm tội, con dao tự chế là của bị cáo Đỗ Viết Đ, còn gậy bóng chày là của Nguyễn Văn Ng cho bị cáo Đỗ Viết H mượn. Hội đồng xét xử xét thấy: Con dao tự chế và gậy bóng chày là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng, hơn nữa Nguyễn Văn Ng trong quá trình điều tra đã đề nghị tịch thu, tiêu hủy đối với gậy bóng chày. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét tịch thu, tiêu hủy theo quy định của pháp luật.
Đối với 01 gậy rút ba khúc hình trụ tròn dài nhất 63cm, tay cầm bằng cao su màu đen, thân gậy bằng kim loại, đường kính rộng nhất 1,5cm. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra cũng đã xác định là của Lê Sỹ Đ không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo. Tuy nhiên, đây là vũ khí thô sơ và bản thân Lê Sỹ Đ đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ vũ khí thô sơ” theo quy định tại điểm b, khoản 4 Điều 7 Nghị định số: 144 ngày 31/12/2021 của Chính phủ là phù hợp. Tại phiên tòa hôm nay, Lê Sỹ Đ vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy đối với chiếc gậy rút này nên Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
Đối với 01 thẻ sim điện thoại số 0347.243.X của bị cáo Đỗ Viết H, 01 thẻ sim điện thoại số 0868.445.671 của bị cáo Đỗ Viết Đ và 01 thẻ sim điện thoại số 0342.925.X của bị cáo Đỗ Văn Đ được các bị cáo sử dụng trong các máy điện thoại để liên lạc với nhau rủ nhau đi đánh nhau. Do không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S lắp sim số 0867.507.X của Lê Sỹ Đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 Plus lắp sim số 0353.435.X của Nguyễn Đắc Đ. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã xác định những chiếc điện thoại này không liên quan đến hành vi phạm tội nên xem xét trả lại cho Sỹ Đ và Đắc Đ là phù hợp, đúng theo quy định của pháp luật.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển kiểm soát 99F1-X mà bị cáo Đỗ Viết H điều khiển đuổi đánh Lê Sỹ Đ ngày 19/3/2022. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th xác định chiếc xe trên là của ông Đỗ Viết L, sinh năm 1973; trú tại: Thôn Y - xã Ng - huyện Th - tỉnh B (Là bố đẻ của bị cáo H). Ông L cho bị cáo H mượn để đi làm, không biết bị cáo H sử dụng xe mô tô trên để đi đuổi đánh Lê Sỹ Đ. Vì vậy, ngày 16/6/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã trả lại cho ông L chiếc xe mô tô trên là có căn cứ.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 99F1-X mà bị cáo Đỗ Văn Đ điều khiển đuổi đánh Lê Sỹ Đ ngày 19/3/2022. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th xác định chiếc xe trên là của bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1980; trú tại: Thôn Đ - xã N - huyện Th - tỉnh B (Là mẹ đẻ của bị cáo Nguyễn Văn S). Bà H cho bị cáo S mượn để đi chơi, không biết bị cáo S sử dụng xe mô tô trên để đi đuổi đánh Lê Sỹ Đ. Chiếc xe này, sau khi bị cáo S đem về trả bà H đã bán lại cho người khác nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th không thu giữ để xử lý là phù hợp.
Đối với 01 xe gắn máy nhãn hiệu Honda Cub biển kiểm soát 99AF-X mà Lê Sỹ Đ điều khiển chở Nguyễn Đắc M ngày 19/3/2022. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th xác định chiếc xe trên là của chị Lê Thị H, sinh năm 1999; trú tại: Thôn C - xã Ng - huyện Th - tỉnh B (Là chị gái của Sỹ Đ) cho Sỹ Đ mượn để đi học. Vì vậy, ngày 27/6/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã trả chiếc xe cho chị H là đúng theo quy định của pháp luật.
Đối với 01 cặp da (Dạng ba lô) màu đen kích thước (45x38x13)cm. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã xác định là của Lê Sỹ Đ không liên quan đến vụ việc nên ngày 29/6/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã trả cho Sỹ Đ là phù hợp.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S của Nguyễn Văn Ng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 của bị cáo Đỗ Hồng Th. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã làm rõ Ng dùng để nghe điện thoại khi bị cáo Đỗ Viết H gọi đến để hỏi mượn gậy bóng chày và bị cáo Th dùng để nghe bị cáo H gọi đến rủ đi đánh nhau. Do Ng và bị cáo Th đã làm rơi mất điện thoại, không biết rơi ở đâu. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th không thu giữ được nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.
Đối với 01 đĩa DVD ghi lại một phần nội dung vụ việc các bị cáo đuổi đánh Lê Sỹ Đạt ngày 19/3/2022 là tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo nên cần lưu giữ trong hồ sơ vụ án theo quy định.
[4] Về án phí: Cần buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo: Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ, Đỗ Hồng Th, Đỗ Văn Đ và Nguyễn Văn S phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm o khoản 1 Điều 52 và Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đỗ Viết H 30 (Ba mươi) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (Sáu mươi) tháng tính ngày tuyên án sơ thẩm.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đỗ Viết Đ 27 (Hai mươi bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 54 (Năm mươi tư) tháng tính ngày tuyên án sơ thẩm.
Xử phạt bị cáo Đỗ Hồng Th 26 (Hai mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 52 (Năm mươi hai) tháng tính ngày tuyên án sơ thẩm.
Xử phạt bị cáo Đỗ Văn Đ 26 (Hai mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 52 (Năm mươi hai) tháng tính ngày tuyên án sơ thẩm.
Căn cứ khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 và Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 05 (Năm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng tính ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao các bị cáo: Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ và Đỗ Hồng Th cho Ủy ban nhân dân xã Ng - huyện Th - tỉnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao các bị cáo: Đỗ Văn Đ và Nguyễn Văn S cho Ủy ban nhân dân xã N - huyện Th - tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S, 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 màu xám và 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu iPhone XsMax.
Tịch thu, tiêu hủy 01 (Một) con dao tự chế (Dạng thanh đao) dài 83cm, chuôi bằng gỗ dài 27,5cm, đường kính 2,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 56cm, chỗ rộng nhất 5,5cm, đầu nhọn; 01 (Một) gậy bóng chày bằng kim loại màu đen dài 71cm, trên thân gậy có nhiều vết han rỉ, phần tay cầm của gậy thon gọn được quấn băng dính màu đen, đường kính 03cm, phần thân gậy đường kính 06cm; 01 (Một) gậy rút ba khúc hình trụ tròn dài nhất 63cm, tay cầm bằng cao su màu đen, thân gậy bằng kim loại, đường kính rộng nhất 1,5cm; 01 (Một) thẻ sim điện thoại số 0347.243.X; 01(Một) thẻ sim điện thoại số 0868.445.671 và 01 (Một) thẻ sim điện thoại số 0342.925.X.
Trả lại cho Lê Sỹ Đ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6S lắp sim số 0867.507.X và Nguyễn Đắc Đ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 6 Plus lắp sim số 0353.435.X.
(Theo như Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 33/BB ngày 06/01/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Th).
Lưu giữ trong hồ sơ vụ án với 01 (Một) đĩa DVD ghi lại một phần nội dung vụ việc các bị cáo đuổi đánh Lê Sỹ Đ vào ngày 19/3/2022.
Về án phí: Căn cứ Điều Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo: Đỗ Viết H, Đỗ Viết Đ, Đỗ Hồng Th Đỗ Văn Đ và Nguyễn Văn S (Do ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị H là người đại diện hợp pháp) mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo, người bào chữa cho bị cáo vị thành niên, người đại diện hợp pháp của bị cáo vị thành niên có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Riêng người đại diện hợp pháp của bị cáo vị thành niên, những người người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản về tội gây rối trật tự công cộng án số 06A/2023/HS-ST
Số hiệu: | 06A/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Thành (cũ) - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về