Bản án về xin ly hôn số 32/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 32/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đ - tỉnh Lâm Đồng; xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2022/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp: “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 19 tháng 05 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 72/2002/QĐST-HNGĐ ngày 16/6/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Tấn C, sinh năm:1971; Địa chỉ: số nhà X, đường P, Phường Y, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

2. Bị đơn: Chị Phan Thị Q, sinh năm: 1975; Địa chỉ: số nhà X, đường P, Phường Y, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn anh Nguyễn Tấn C trình bày, anh và chị Phan Thị Q xây dựng gia đình với nhau vào năm 2002, trên cơ sở tìm hiểu, tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường Y, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến tháng 11/2005 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, không đồ ng quan điểm sống. Vì vậy, từ năm 2013 cho đến nay vợ chồng đã sống ly thân nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị Q không còn nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Q.

Về con chung, anh và chị Quý có 02 con chung là Nguyễn Tấn Nhật P, sinh ngày 26/4/2003 và Nguyễn Tấn Nhật K, sinh ngày 11/3/2005. Khi ly hôn cháu P đã đủ tuổi trưởng thành và phát triển bình thường nên anh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Đối với cháu K, anh đề nghị giải quyết theo nguyện vọng của con, nếu cháu K có nguyện vọng được ở với anh thì anh cũng đồng ý. Về việc cấp dưỡng nuôi con để anh và chị Q tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, anh yêu cầu để vợ chồng tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời, anh xác định vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Phan Thị Q trình bày, thống nhất về mối quan hệ hôn nhân như anh C trình bày. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh C gia trưởng và có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nên từ cuối năm 2018 cho đến nay vợ chồng chị đã sống ly thân nhau. Nay anh C làm đơn xin ly hôn chị xác định tình cảm vợ chồng với anh C vẫn còn, đồng thời chị muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình và tương lai của các con nên chị không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh C.

Về con chung, chị Q xác định vợ chồng tôi có 02 con chung là Nguyễn Tấn Nhật P, sinh ngày 26/4/2003 và Nguyễn Tấn Nhật K, sinh ngày 11/3/2005. Khi ly hôn cháu P đã đủ tuổi trưởng thành và phát triển bình thường nênchị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Đối với cháu K, chị đề nghị giải quyết theo nguyện vọng của con, nếu cháu K có nguyện vọng được ở với anh C thì chị cũng đồng ý, chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, chị yêu cầu để vợ chồng tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời, chị xác định vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên tòa, anh C xác định tình cảm vợ chồng với chị Q không còn nên vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với chị Q. Về con chung, anh C yêu cầu giải quyết theo nguyện vọng của con. Về tài sản chung, anh C yêu cầu để vợ chồng tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời, anh xác định vợ chồng không có nợ chung.

Chị Q xác định vẫn còn tình cảm vợ chồng với anh C nên mong muốn được đoàn tụ gia đình để nuôi dạy con chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, các đương sự và Hội đồng xét xử. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Tấn C. Về con chung, tài sản chung do không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh C nên không đặt ra để xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Tấn C và chị Phan Thị Q kết hôn với nhau vào năm 2002, trên cơ sở tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Y, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không chia sẻ với nhau trong cuộc sống hàng ngày, anh C có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, còn chị Q trong cách xử sự hàng ngày với anh C cũng không được khéo léo nên dẫn đến cuộc sống chung của vợ chồng đôi lúc xảy ra xung đột. Mặc dù anh C không thừa nhận mình có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, tuy nhiên qua một số hình ảnh anh C chụp với một người phụ nữ khác đã thể hiện sự thân mật trong quan hệ tình cảm của anh C với người phụ nữ này. Điều này đã chứng minh anh C có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác.

[1.2] Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa anh C và chị Q chưa đến mức trầm trọng, việc anh C có quan hệ với người phụ nữ khác rồi làm đơn xin ly hôn với chị Q là không có căn cứ. Bởi lẽ bản thân anh C là người có lỗi nhưng không nhận ra được cái sai của mình để sửa chữa nhằm cải thiện mối quan hệ vợ chồng lại làm đơn ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị Q không đồng ý ly hôn, xác định vẫn còn tình cảm với anh C và tha thiết mong được đoàn tụ gia đình để nuôi dạy con chung; điều này thể hiện mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng để không còn có thể hàn gắn được.

[1.3] Để đảm bảo quyền lợi của chị Q là phụ nữ cũng như tạo điều kiện về thời gian để anh C suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với gia đình, đồng thời tạo điều kiện cho anh C và chị Q cơ hội hàn gắn tình cảm để xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con chung nên căn cứ Điều 51, Điều 53 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; không chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Nguyễn Tấn C đối với chị Phan Thị Q là hoàn toàn phù hợp.

[2] Do không chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Nguyễn Tấn C nên không xem xét giải quyết về con chung.

[3] Về án phí: Anh C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

- Áp dụng các Điều 51, Điều 53 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Tấn C về việc “Xin ly hôn” với chị Phan Thị Q.

2. Về án phí: Anh Nguyễn Tấn C phải chịu 300.000đ án phí Dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0001418 ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; anh Nguyễn Tấn C đã nộp đủ án phí.

Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 32/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:32/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về