Bản án về xin ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 07/2022/TLST-HNGĐ ngày 10/01/2022 về việc “Xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Diệp Ngọc X, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Khu phố B, phường T, thành phố H, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Ông Tạ Văn B, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Khu phố H, phường P, thành phố H, tỉnh Kiên Giang.

Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 01 năm 2022 và trong quá trình xét xử nguyên đơn bà Diệp Ngọc X trình bày: Bà và ông Tạ Văn B kết hôn vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND phường P, thị xã H. Cuộc sống vợ chồng lúc đầu hạnh phúc, sau này phát sinh mâu thuẫn do ông B cờ bạc, không chăm lo cho cuộc sống vợ còn, bà có khuyên nhủ nhiều lần nhưng ông B vẫn không thay đổi, rất nhiều lần bà tha thứ nhưng đến nay quá sức chịu đựng của bà nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Tạ Văn B.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có hai con chung tên Tạ Hữu T, giới tính nam, sinh ngày 30/11/2012; Tạ Kim H, giới tính nữ, sinh ngày 09/8/2014, khi ly hôn bà yêu cầu được nuôi dưỡng cả hai con đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu ông B cấp dưỡng chi phí nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Tạ Văn B vắng mặt và không có ý kiến.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn chưa thực hiện theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H: Về quan hệ hôn nhân: áp dụng Điều 19, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà X ly hôn với ông B. Về con chung: Áp dụng các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao con chung cho bà X tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, ghi nhận việc không yêu cầu cấp dưỡng của bà X. Về phần tài sản chung và nợ chung: không có nên không yêu cầu xem xét. Án phí: Buộc bà X chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và căn cứ Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đây là vụ án có quan hệ pháp luật tranh chấp Hôn nhân và gia đình về việc xin ly hôn. Trong vụ án này bị đơn ông Tạ Văn B đang cư trú tại Khu phố H, phường P, thành phố H, tỉnh Kiên Giang nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Trong thời gian thụ lý giải quyết, ông Tạ Văn B đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên hợp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ mà ông B vắng mặt, ngày 09/5/2022 Tòa án tiến hành lập biên bản phiên họp về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai tài liệu chứng cứ và ghi nhận ý kiến của bà X, bà X vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với ông B. Tòa án đưa vụ án ra xét xử vào ngày 24/5/2022 nhưng bị đơn là ông B vắng mặt lần thứ nhất không lý do nên phiên tòa phải hoãn theo quyết định hoãn phiên tòa số 29/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24/5/2022, tại phiên tòa hôm nay ông B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên Tòa lần 2 nhưng vắng mặt.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về nội dung: Bà Diệp Ngọc X và ông Tạ Văn B kết hôn vào năm 2012, có đăng ký kết hôn và được UBND phường P, thị xã H (nay là thành phố H) cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 14/5/2012. Như vậy, hôn nhân của ông, bà là hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình thụ lý giải quyết và tại phiên Tòa hôm nay bà X vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện là yêu cầu được ly hôn với ông B, ông B đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông B vắng mặt. Theo lời khai của bà X, trong quá trình chung sống lúc đầu hạnh phúc, sau này phát sinh mâu thuẫn, do ông B cờ bạc không chăm lo cuộc sống vợ con, tiền bạc làm ra đều bị ông B đem đi cờ bạc hết và còn gây thêm nợ nần. Trong quá trình thụ lý ông B có nhận được thông báo thụ lý vụ án do Tòa án tống đạt nhưng ông B không có ý kiến và khi Tòa án triệu tập hòa giải ông B vắng mặt, do đó vụ án không thể tiến hành hòa giải được. Qua xác minh của Tòa án tại khu phố H, phường P cho thấy ông B có đăng ký thường trú tại địa phương, sau khi kết hôn thì ông B sống qua lại giữa phường T và phường P do cha mẹ ruột ông B sinh sống tại phường P. Theo kết quả xác minh tại Khu phố B, phường T thì bà X có đăng ký thường trú tại địa phương, bà X, ông B có sinh sống qua lại giữa Khu phố B, phường T và Khu phố H, phường P, nhưng từ tháng 11/2021 cho đến nay ông B đã về nhà cha mẹ ruột ông B sinh sống cho đến nay, về mâu thuẫn trong gia đình được biết ông B có cờ bạc nên xảy ra mâu thuẫn với bà X. Tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Qua trình bày của nguyên đơn, bị đơn và kết quả thu thập chứng cứ tại địa phương cho thấy bà X, ông B không còn chung sống một thời gian dài và hiện nay không có biện pháp khắc phục để chung sống mang lại hạnh phúc lâu dài. Vợ chồng không còn yêu thương chăm sóc nhau, không ai quan tâm ai, mỗi người có cuộc sống riêng là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ vợ chồng. Xét thấy, hôn nhân của X, ông B đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nghị cần chấp nhận cho bà X được ly hôn với ông B.

[4] Về con chung: Ông bà hai con chung tên Tạ Hữu T, giới tính nam, sinh ngày 30/11/2012; Tạ Kim H, giới tính nữ, sinh ngày 09/8/2014, hiện nay cả hai đứa con đang sống cùng bà X, khi ly hôn bà X yêu cầu được nuôi dưỡng cả hai con đến tuổi trưởng thành. Xét thấy nguyện vọng của hai con chung là được sống cùng mẹ, hai con chung từ nhỏ do bà X nuôi dưỡng, chăm sóc, hiện nay con cũng đang do bà X nuôi dưỡng, xét thấy các con đã thích nghi với môi trường sống cùng bà X nên việc bà X tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T, cháu H là tạo điều kiện cho cháu T, cháu H phát triển về mọi mặt. Áp dụng khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, nghị cần giao cả hai con chung cho bà X nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Ghi nhận ý kiến bà X không yêu cầu ông B cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà X trình bày không có tài sản chung và nợ chung, ông B thì không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bà X khởi kiện nên phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 19, 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Diệp Ngọc X với ông Tạ Văn B.

- Về con chung: Giao con chung tên Tạ Hữu T, giới tính nam, sinh ngày 30/11/2012; cháu Tạ Kim H, giới tính nữ, sinh ngày 09/8/2014 cho bà Diệp Ngọc X tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Ghi nhận ý kiến bà X không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung.

Bà X cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông B trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật.

- Tài sản và nợ chung: Bà X trình bày không có tài sản chung và nợ chung, ông B không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí: Bà Diệp Ngọc X phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ tiền tạm ứng án phí mà bà X đã nộp số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai tạm ứng án phí số 0000365 ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố H, nay bà X không phải nộp thêm.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về