Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/02/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 15 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 450/2021/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2021 về việc tranh chấp “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 162/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Ng uyên đơn Chị Trần Ngọc G, sinh năm 1995 (Xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp K, xã H, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn Anh Văn Công G, sinh năm 1989 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp K, xã H, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 08/11/2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án chị Trần Ngọc G trình bày:

Chị với anh Văn Công G do quen biết nên xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang vào ngày 02/12/2013. Chị và anh G sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh G không lo làm ăn mà ăn chơi lêu lỏng, sống không chung thủy, vợ chồng thường xuyên cải vả cuộc sống chung không hạnh phúc. Năm 2018 chị đã bộp đơn xin ly hôn với anh G như sau đó chị đã rút đơn lại và Tòa án nhân dân huyện Cái Bè đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 05/2019/QĐST –HNGĐ ngày 25/01/2019. Mục đích là để tạo cho anh G cơ hội sửa đổi nhưng anh G vẫn không thay đổi. Chị và anh Giàu chính thức ly thân từ tháng 02/2020 cho đến nay. Nay chị yêu cầu ly hôn với anh G.

Về con chung: Chị và anh G có 01 con chung tên Văn Kim Tuyền T, sinh ngày 07/02/2012 hiện đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được quyền nuôi con, không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 06/12/2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Văn Công G trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị Giàu về con chung và thời gian chung sống, thời gian kết hôn nhưng mâu thuẫn là do anh làm mất tiền rồi chị Giàu tự ý bỏ nhà đi rồi nộp đơn xin ly hôn với anh. Anh và chị G chính thức ly thân từ tháng 01/2019 cho đến nay. Nay anh không đồng ý ly hôn vì còn thương vợ, thương con. Nếu tòa án cho chị Giàu được ly hôn thì con chung để Tòa án tự quyết định.

Tài sản chung, nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự: Chị Trần Ngọc G có đơn đề nghị Tòa án giải quyết việc hôn nhân của chị với anh Văn Công Giàu có địa chỉ tại ấp K, xã H, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điểm a, khoản 1, Điều 35; Điểm a, khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

- Chị Trần Ngọc G có đơn xin vắng mặt. Đối với anh Văn Công G được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham dự phiên nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị G và anh G.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị G và anh G xác lập quan hệ vợ chồng năm 2013 có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Cái Bè,tỉnh Tiền Giang nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Theo đơn khởi kiện chị G trình bày nguyên nhân mâu do bất đồng quan điểm sống, anh Giàu không lo làm ăn mà ăn chơi lêu lỏng, sống không chung thủy, vợ chồng thường xuyên cải vả cuộc sống chung không hạnh phúc nên chị cương quyết ly hôn. Anh G cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn do anh làm mất tiền rồi chị G tự ý bỏ nhà đi. Sau đó nộp đơn xin ly hôn với anh. Nay anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị G.

Xét thấy, hiện tại cuộc sống hôn nhân của chị G và anh G không còn hạnh phúc. Anh, chị đã sống ly thân trong khoảng thời gian dài không thể hàn gắn đoàn tụ được, anh G cho rằng giữa anh và chị G không có mâu thuẫn gì lớn nhưng anh cũng không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn đoàn tụ và vắng mặt không rõ lý do. Mặt khác, vào năm 2018 chị Giàu đã nộp đơn xin ly hôn với anh G nhưng chị đã rút đơn lại và Tòa án nhân dân huyện Cái Bè đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 05/2019/QĐST –HNGĐ ngày 25/01/2019 tạo điều kiện cho hai bên hàn gắn nhưng không kết quả, điều đó cho thấy mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng của anh G, chị G đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Giàu là cho chị G được ly hôn với anh G là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh G, chị G có 01 con chung tên Văn Kim Tuyền T, sinh ngày 07/02/2012. Chị G yêu cầu được quyền nuôi con chung, không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, anh chị có 01 con chung chưa thành niên, từ khi hai anh, chị sống ly thân cháu sống với chị Giàu và cháu có nguyện vọng sống với mẹ. Còn anh G không có ý kiến gì về việc nuôi con. Do đó Hội đồng xét xử nghĩ nên tiếp tục giao con chung cho chị G trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Về việc cấp dưỡng nuôi con do chị Giàu không có yêu cầu nên không cần đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

[5] Về án phí Hôn nhân sơ thẩm: Chị G phải chịu án phí Hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1, khoản 5, Điều 28; Điểm a, khoản 1 Điều 35; Điểm a, khoản 1, Điều 39; Khoản 4, Điều 147; Điều 273, Điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân :

Cho chị Trần Ngọc G được ly hôn với anh Văn Công G.

2. Về con chung : Tiếp tục giao con chung tên Văn Kim Tuyền T, sinh ngày 07/02/2012 cho chị G trực tiếp nuôi dưỡng. Anh G không phải cấp dưỡng nuôi con do chị G không có yêu cầu.

Anh G được quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định pháp luật.

3. Về án phí : Chị G phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0000920, ngày 18/11/2021 của Cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang nên coi như đã nộp xong.

4. Về quyền kháng cáo : Chị G và anh G được quyền được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án, để Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm vụ án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về