Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn số 10/2022/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-PT NGÀY 14/06/2022 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN

Trong ngày 14 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 19/2021/TLPT-HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2021, về việc “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn”.

Do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 55/2021/HNGĐ-ST ngày 21tháng 9 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 04/2022/QĐ-PT ngày 12 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/QĐ-PT ngày 23/5/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thúy L, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn 1, xã BR, huyện TL, tỉnh Bình Thuận.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Lê Thị Thúy L:

Luật sư Nguyễn Quốc Ph - Chi nhánh Văn phòng luật sư Quốc Phòng - Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

Đa chỉ: Số 81, đường LXO, Khu phố 2, phường TNP A, Quận 9 (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Anh Lê Hữu Tr, sinh năm 1985;

Đa chỉ: Thôn 1, xã BR, huyện TL, tỉnh Bình Thuận.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn Chị Lê Thị Thúy L. Các đương sự khác không kháng cáo.

Đương sự và Luật sư đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm:

Nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trình bày: Chị Lê Thị Thúy L yêu cầu anh Lê Hữu Tr giao cháu Lê Chấn H, sinh ngày 12/02/2017 cho chị L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và chị L không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con.

Chị L với anh Tr kết hôn năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã Bắc Ruộng, quá trình chung sống có với nhau người con chung là cháu H. Do cuộc sống hôn nhân có nhiều mâu thuẫn nên tháng 12/2020, chị L làm thủ tục ly hôn với anh Tr, được Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh giải quyết ly hôn tại Bản án sơ thẩm số 12/2021/HNGĐ-ST ngày 17/3/2021, bản án quyết định giao cháu H cho anh Tr nuôi dưỡng.

Tuy nhiên, sau khi ly hôn, anh Tr chăm sóc cháu H không được tốt như trước vì mẹ anh Tr vừa chết, không có người chăm lo cho cháu H; anh Tr thường trực đêm ở cơ quan, để cháu H ở nhà với ông nội mà ông đã lớn tuổi, không thể trông coi cháu được tốt. Ngoài ra, khi chị L đến thăm cháu thì anh Tr gây khó khăn, không tạo điều kiện cho chị L thăm con; cháu H còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ hơn. Từ những lý do trên, chị L yêu cầu giao cháu H lại cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng mới đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho cháu.

Bị đơn anh Lê Hữu Tr trình bày:

Anh Lê Hữu Tr không đồng ý giao cháu H cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, anh Tr nuôi dưỡng, chăm sóc cháu H tốt, cháu phát triển khỏe mạnh, bình thường. Hiện nay anh Tr có việc làm, thu nhập ổn định, nhà cửa, chỗ ở đầy đủ. Ngoài thời gian đi làm thì anh Tr dành thời gian chăm sóc cháu H. Anh Tr nhận thấy bản thân có đủ điều kiện nuôi dưỡng cháu H.

Mặt khác, chị L hiện tại công việc không ổn định, thường phải đi lại nhiều nên không có thời gian chăm sóc con. Anh Tr vẫn tạo điều kiện tốt nhất cho chị L thăm nom, chăm sóc cháu H chứ không ngăn cản. Do thời gian vừa qua xảy ra dịch bệnh Covid-19 nên anh Tr có lưu ý chị L là không nên chở cháu H đi lại nhiều nơi, sợ cháu bị lây dịch bệnh, từ đó chị L mới cho rằng anh Tr cản trở chị L thăm con chứ thực tế anh Tr cũng như gia đình không ngăn cản chị L thực hiện quyền thăm nom, chăm sóc cháu H.

Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 55/2021/HNGĐ-ST ngày 21 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, quyết định:

Căn cứ vào:

- Khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 227, 228, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 3 Điều 82; khoản 2, 3 Điều 84 Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014;

- Khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

- Không chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của chị Lê Thị Thúy L.

- Giữ nguyên quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục người con chung tên là Lê Chấn H, sinh năm 2017 cho đến khi thành niên của anh Lê Hữu Tr. Chị Lê Thị Thúy L được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Buc chị Lê Thị Thúy L phải chịu 300.000đồng án phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đồng đã nộp theo biên lai số 0007372 ngày 14/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tánh Linh. Chị L đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm.

Bản án còn tuyên vềquyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.

Ngày 30/9/2021 nguyên đơn chị Lê Thị Thúy L kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ bản án sơ thẩm,chấp nhận kháng cáo của tôi và tuyên bố tôi được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục người con chung tên Lê Chấn H - sinh năm 2017 cho đến khi thành niên.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.

- Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tranh luận: Sau khi xét xử sơ thẩm thì đã phát sinh tình tiết mới đó là bà L đã được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất, điều này chứng minh bà L có đủ điều kiện kinh tế, thời gian hơn ông Tr để trực tiếp nuôi cháu H. Bên cạnh đó, ông Tr là Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự xã nên mất nhiều thời gian cho công việc, thường xuyên phải đi trực, nên cháu thường phải theo ông Tr lên cơ quan, môi trường làm việc tại cơ quan là không phù hợp với độ tuổi của cháu. Cháu H đã hơn 07 tuổi, đáng lẽ cần thiết phải hỏi ý kiến của trẻ để có căn cứ giải quyết yêu cầu của bà L nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện, cháu H rất tha thiết được sống với mẹ. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.

- Bị đơn không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận phát biểu việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong vụ án:

+ Về thủ tục: Việc chấp hành pháp luật của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật.

+ Về nội dung: Kháng cáo của nguyên đơn không có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền:

Nguyên đơn chị Lê Thị Thúy L khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh Lê Hữu Tr phải giao cháu Lê Chấn H là con chung của chị L với anh Tr cho chị L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng sau khi chị L và anh Tr ly hôn. Đây là “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn” quy định tại khoản 3 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn có nơi cư trú tại huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận theo quy định tại khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn:

Xét yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn chị Lê Thị Thúy L, Hội đồng xét xử nhận thấy: Chị Lê Thị Thúy L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh Lê Hữu Tr phải giao cháu Lê Chấn H - sinh ngày 12/02/2017 (đến thời điểm hiện nay chưa đủ 7 tuổi) là con chung của chị L với anh Tr cho chị L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Lý do: Sau khi ly hôn, anh Tr không đảm bảo điều kiện về thời gian để chăm sóc cháu H và anh Tr nhiều lần ngăn cản, không tạo điều kiện cho chị L thăm nom, chăm sóc cháu H.

Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 12/2021/HNGĐ-ST ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, quyết định giao người con chung là cháu Lê Chấn H cho anh Tr được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng với căn cứ: “...Do cháu Lê Chấn H còn nhỏ, để cháu H có điều kiện phát triển tốt về mọi mặt thì rất cần nhiều thời gian để chăm sóc. Do thời gian làm việc của chị L không ổn định; đi làm về trể. Cho nên nếu giao cháu Lê Chấn H cho chị L được quyền nuôi dưỡng thì chị L không có thời gian để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con được tốt hơn anh Tr”. Từ thời điểm ly hôn cho đến nay thì công việc, thời gian để chăm sóc con chung của anh Tr vẫn không thay đổi.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét điều kiện nuôi dưỡng,chăm sóc, học tập của cháu Lê Chấn H cho thấy cháu H phát triển bình thường như những trẻ cùng lứa tuổi. Việc chăm sóc, dạy dỗ của anh Tr từ khi được giao con cho anh trực tiếp nuôi dưỡng cho đến nay thể hiện cháu H phát triển tốt cả về thể chất lẫn trí tuệ.

Chị Lê Thị Thúy L khởi kiện và kháng cáo yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con nhưng không đưa ra được chứng cứ để chứng minh anh Lê Hữu Tr không đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu H hay vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu H. Thực tế anh Tr có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu H như việc làm, thu nhập, thời gian, chỗ ở và sinh hoạt.

Từ những phân tích trên, cho thấy lý do chị L trình bày và kháng cáo để yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung không phù hợp với những căn cứ được quy định tại khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình. Không có căn cứ pháp luật để chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung của chị L như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tại phiên tòa; không chấp nhận kháng cáo của chị Lê Thị Thúy L, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Ý kiến phát biểu của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không có căn cứ chấp nhận.

[4] Về án phí phúc thẩm:

Kháng cáo của nguyên đơnkhông được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[5] Tại phần quyết định của bản án sơ thẩm tuyên: “Giữ nguyên quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục người con chung tên là Lê Chấn H, sinh năm 2017 cho đến khi thành niên của anh Lê Hữu Tr. Chị Lê Thị Thúy L được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở” là chưa đúng quy định của pháp luật, việc giữ nguyên hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con là quyền định đoạt của đương sự. Tòa án cấp phúc thẩm điều chỉnh phần này mà không phải sửa bản án sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Khon 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn chị Lê Thị Thúy L.

Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 55/2021/HNGĐ-ST ngày 21/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.

2. Căn cứ vào:

- Khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 227, 228, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 3 Điều 82; khoản 2, 3 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Khoản 3 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Không chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con Lê Chấn H, sinh ngày 12/02/2017 sau khi ly hôn của chị Lê Thị Thúy L.

- Về án phí: Buc chị Lê Thị Thúy L phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai số 0007372 ngày 14/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tánh Linh. Chị L đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm.

3. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Về án phí phúc thẩm: Chị Lê Thị Thúy L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm được trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007458 ngày 07/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Chị Lê Thị Thúy L đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (14/6/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

518
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn số 10/2022/HNGĐ-PT

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về