Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 214/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 214/2023/DS-PT NGÀY 20/04/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 20 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 195/2022/TLPT- DS ngày 06-6-2022 về việc tranh chấp “Quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 09/2021/DS-ST ngày 15-6-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 574/2023/QĐXXPT-DS ngày 22-3- 2023, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Cụ Nguyễn Văn K (đã chết ngày 26-8-2022).

Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ K:

1/ Ông Nguyễn Văn H (tên gọi khác là Nguyễn Thiện Đôn, Don Thien Nguyen), sinh năm: 1949; Địa chỉ: 42657 Glen Hancock ct, San Jose, CA 95148, USA, vắng mặt.

2/ Ông Nguyễn Văn H1;

3/ Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm: 1953 (đã chết).

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà H2:

3.1/ Đinh Văn T, sinh năm 1951; vắng mặt.

3.2/ Đinh Thị D, sinh năm 1976; vắng mặt.

3.3/ Đinh Công D1, sinh năm 1978; vắng mặt.

3.4/ Đinh Thị D2, sinh năm 1980; vắng mặt.

3.5/ Đinh Hoàng Kh, sinh năm 1982; vắng mặt.

3.6/ Đinh Hoàng S, sinh năm 1991; vắng mặt.

3.7/ Đinh Thụy T2, sinh năm 1992; vắng mặt.

Cùng địa chỉ: 106/24, ấp 7, xã XTT, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh.

4/ Bà Nguyễn Thị V (V Thi Nguyen), sinh năm: 1960; địa chỉ: H2 Kỳ, vắng mặt.

5/ Ông Nguyễn Văn Th1, sinh năm: 1963; trú tại: Ấp Muối Lớn, xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

6/ Ông Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1964 (đã chết);

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Chuân:

6.1/ Nguyễn Bích Gh, sinh năm 1968; vắng mặt.

6.2/ Nguyễn Duy H3, sinh năm 1991; vắng mặt.

6.3/ Nguyễn Mùa Tuyết S, sinh năm 1996; vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Số 677, thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng.

7/ Ông Nguyễn Văn Th2, sinh năm 1967. Vắng mặt 8/ Ông Nguyễn Văn M, sinh năm: 1968; trú tại: Số 677, thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H4, sinh năm:

1967; trú tại: Số 667, thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

Bị đơn: Ông Vũ Văn K1, sinh năm: 1954; trú tại: Số 102 thôn GD, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Hồng Ph, sinh năm: 1971; trú tại: Số 28, tổ 20, thôn P, xã H, huyện ĐT, tỉnh Lâm Đồng (văn bản số 6339 ngày 12-12- 2017), có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Nguyễn Thị T5, sinh năm: 1956; cư trú tại số 102, thôn GD, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Hồng Ph, sinh năm: 1971; cư trú tại số 28, tổ 20, thôn P, xã H, huyện ĐT, tỉnh Lâm Đồng, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 6340, quyển số 04/2017/UQ/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng Võ Thị Thanh H3 chứng thực 12/12/2017), có mặt.

2/ Bà Nguyễn Thị H4, sinh năm: 1967; cư trú tại số 677, thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

3/ Ông Nguyễn Văn M, sinh năm: 1968; cư trú tại số 677, thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng, có đơn xin xét xử vắng mặt.

4/ Ông Nguyễn Văn Th1, sinh năm: 1963; cư trú tại ấp Muối Lớn, xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, có đơn xin vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thị H4, sinh năm: 1967; cư trú tại số 667, thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 005414, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng Trần Trung Dũng chứng thực ngày 04-6-2018), có mặt.

5/ Ông Nguyễn Văn H (tên gọi khác là Nguyễn Thiện Đôn, Don Thien Nguyen), sinh năm: 1949; Địa chỉ: 42657 Glen Hancock ct, San Jose, CA 95148, USA, vắng mặt.

6/ Ông Nguyễn Văn H5, sinh năm: 1953; cư trú tại số 665, thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng, có đơn xin vắng mặt.

7/ Bà Trần Thị Kh, sinh năm: 1956, có đơn xin vắng mặt.

8/ Ông Phạm Văn Th, sinh năm: 1951, có đơn xin vắng mặt.

Cùng cư trú tại số 663, thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng.

9/ Bà Nguyễn Thị V (V Thi Nguyen), sinh năm: 1960; địa chỉ: H2 Kỳ, vắng mặt. Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thị H4, sinh năm: 1967; cư trú tại số 667, thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 006198, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng Trần Trung Dũng chứng thực ngày 02-7-2018), có mặt.

10. Ủy ban nhân dân huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng. Địa chỉ: Số 124, đường 2/4, thị trấn Thạnh Mỹ, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng.

Ngưi đại diện hợp pháp: Ông Đinh Ngọc H6, là người đại diện theo pháp luật (Chủ tịch Ủy ban nhân dân).

Ngưi đại diện theo ủy quyền: Ông Lưu Đình C và ông Dương Đức Đ, đều vắng mặt.

11. Ông Đinh Văn T, sinh năm: 1951, có đơn xin vắng mặt.

12. Chị Đinh Thị D, sinh năm: 1976, có đơn xin vắng mặt.

13. Anh Đinh Công D1, sinh năm: 1978, có đơn xin vắng mặt.

14. Chị Đinh Thị D2, sinh năm: 1980, có đơn xin vắng mặt.

15. Anh Đinh Văn Kh, sinh năm: 1982, có đơn xin vắng mặt.

16. Anh Đinh Hoàng S, sinh năm: 1991, có đơn xin vắng mặt.

17. Chị Đinh Thụy T, sinh năm: 1992, có đơn xin vắng mặt.

Cùng cư trú tại số 106/24, ấp 7, xã XTT, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh.

18. Chị Nguyễn Thị Ái N, sinh năm: 1985, có đơn xin vắng mặt.

19. Chị Nguyễn Thị Ái Tr, sinh năm: 1988, có đơn xin vắng mặt.

Cùng trú tại số 18, đường P, Phường 3, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Anh Nguyễn Duy H3, sinh năm: 1991, có đơn xin vắng mặt.

21. Chị Nguyễn Bích Gh, sinh năm: 1998, có mặt.

22. Chị Nguyễn Mùa Tuyết S, sinh năm: 1996, có đơn xin vắng mặt. Cùng cư trú tại số 677, thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng.

23. Ông Nguyễn Văn T; cư trú tại thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng, có đơn xin vắng mặt.

* Người kháng cáo: Bị đơn ông Vũ Văn K1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án như sau:

- Theo lời trình bày của cụ Nguyễn Văn K và đại diện theo ủy quyền của cụ K là bà Nguyễn Thị H4, thì vào năm 1969 cụ K có nhận chuyển nhượng của vợ chồng cụ Huỳnh Công N, cụ Trần Thị Ng lô đất có diện tích 2.850m2 thuộc thửa số 48, tờ bản đồ số 13, tại thôn Lạc Viên, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng, giá chuyển nhượng là 30.000đ. Khi xác lập việc chuyển nhượng Quyền sử dụng đất các bên có lập giấy tờ (giấy đoạn mại đất ngày 05-01-1969), hai bên đã giao tiền và nhận đất để sử dụng, sau khi nhận chuyển nhượng thì cụ K sử dụng ổn định từ khi nhận chuyển nhượng cho đến nay, chưa được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, do diện tích đất bị dốc, xấu cụ K trồng khoai mỳ, khoai lang nhưng không được, năm 1982 có bà Nguyễn Thị Tròn đến làm căn nhà trên diện tích đất này, sau đó bà T là cháu của bà Tròn đến ở chung với bà T, do cụ K phản đối nên bà Tròn đã tháo dỡ căn nhà và bỏ đi (bà H4 không nhớ thời gian bà Tròn chuyển đi), sau khi bà Tròn đi thì gia đình cụ K sử dụng diện tích đất này, dùng để đổ rác và cụ K có thỏa thuận chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất 396m2 này cho bà H4, có lập giấy tay. Đến năm 2003 bà H4 cho máy múc san ủi diện tích đất trên thì ông K1 ngăn không cho làm và xuất trình Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số L498824 ngày 20-11-1998 đã được Ủy ban nhân dân huyện ĐD cấp 396m2 đất thổ cư, thuộc thửa 48, tờ bản đồ số 13 trùng với phần diện tích của gia đình cụ K. Diện tích đất 396m2 (đo đạc thực tế là 370m2), thửa 48, tờ bản đồ số 13, xã LX, huyện ĐD mà cụ K đang tranh chấp với vợ chồng ông K1, bà Tân là nằm trong một phần diện tích đất 2.850m2 mà cụ K, cụ Thuận nhận chuyển nhượng của vợ chồng cụ Nghĩa, cụ Ngân vào năm 1969.

Giữa cụ K và cụ Th (cụ Th chết năm 2004) có 08 con chung gồm: Nguyễn Văn H, tên gọi khác là Nguyễn Thiện Đ (Don Thien Nguyen), bà Nguyễn Thị H2 (chết năm 2016), ông Nguyễn Văn Thu (chết trước cụ Th), ông Nguyễn Văn Thị (chết trước cụ Th), ông Nguyễn Văn Ch (chết năm 2012), ông Nguyễn Văn Th1, ông Nguyễn Văn M, bà Nguyễn Thị V (V Thi Nguyen).

Nay cụ K có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

+ Buộc ông K1 trả lại cho cụ K diện tích đất 396m2 đất (đo đạc thực tế là 370m2), thửa 48, tờ bản đồ 13, tọa lạc tại xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng.

+ Hủy Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số L498824 do Ủy ban nhân dân huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng ngày 20-11-1998 cho ông Vũ Văn K1;

Đề nghị Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm căn cứ giải quyết, không yêu cầu Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ lại.

- Theo lời trình bày của ông Nguyễn Hồng Ph, người đại diện theo ủy quyền của ông Vũ Văn K1, thì:

Nguồn gốc đất của ông K1 có được là do cụ Bảy (vợ thứ hai của cụ Huỳnh Công N) cho cha vợ ông K1 là cụ Nguyễn Văn T. Sau đó cụ Thể cho lại vợ chồng ông K1 từ năm 1975, khi cho chỉ cho bằng lời nói, không có giấy tờ gì. Tại thời điểm cụ Bảy cho đất thì cụ Nghĩa đã bỏ địa pH3 về miền Tây sống từ năm 1970. Sau khi được cho diện tích đất trên, ông K1 có khai phá thành một nền đất và cho bà Vũ Thị Tròn làm chòi ở nhờ, sau đó tiếp tục cho cháu ông K1 là bà Vũ Thị Trinh ở, do bà T không ở nữa nên năm 1996 ông K1 đã đi đăng ký kê khai để được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất và đã được cấp năm 1998, trong thời gian này ông K1 không có nhu cầu sử dụng nên tiếp tục cho ông Nguyễn Văn N ở và sau này ông N không ở nữa, diện tích đất nói trên không có đường đi nên để trống cho đến nay. Ông K1 cũng xác định thửa đất trên không có đường để đi vào, trước đây khi chưa san ủi diện tích đất này ở trên cao, muốn đi vào thửa đất pH1 đi nhờ đường vào nhà của các hộ lân cận ở phía trên núi. Trước đây có lối đi vào, sau khi bà H4 múc đất thì hiện nay diện tích đất không có lối đi vào nữa.

Ông K1 không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì diện tích đất trên đã được Ủy ban nhân dân huyện ĐD cấp cho ông vào ngày 20-11-1998. Ông K1 đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước, đây là chứng cứ duy nhất và có cơ sở pháp lý cao nhất. Ngoài ra ông K1 không còn ý kiến nào khác.

Trước đây đã thực hiện các thủ tục thẩm định tại chỗ nhiều lần nên đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định, không có yêu cầu gì bổ sung.

Bà Nguyễn Thị Tân thống nhất với ý kiến của ông K1 và ông Ph, không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Theo lời trình bày của ông Nguyễn Văn Th1 thì: Ông là con ruột của cụ K, cụ Thuận (chết năm 2004), khi còn sống cụ Thuận không có con nuôi, con riêng nào. Quá trình chung sống cụ K, cụ Thuận có 08 con chung như bà H4 trình bày là đúng.

Ngoài ra, có một số con chung đã chết, cụ thể:

+ Bà Nguyễn Thị H2, chết năm 2006, có chồng là Đinh Văn Thiệt, sinh năm 1951, có con là Đinh Thị Du, sinh năm 1976, ông Đinh Công Doanh, sinh năm 1978, bà Đinh Thị Diễm, sinh năm 1980, ông Dinh Văn Khiêm, sinh năm 1982, ông Đinh Văn Sơn, sinh năm 1984, bà Đinh Thị Tâm, sinh năm 1986.

+ Ông Nguyễn Văn Thảnh đã chết, có vợ là Nguyễn Thị Nhâm, sinh năm: 1960, không biết địa chỉ, không biết sinh sống tại đâu, có con là Nguyễn Thị Nữ, sinh năm 1984, bà Nguyễn Thị Trang, sinh năm 1989.

+ Ông Nguyễn Văn Chuân, chết sinh năm 2012, có vợ là Nguyễn Thị H4, sinh năm 1967, có con là Nguyễn Thị Diêm, sinh năm 1994, Nguyễn Văn Địa, sinh năm 1996, Nguyễn Thị Ghi, sinh năm 1998, Nguyễn Thị S, sinh năm 2002. Hiện đang sinh sống trên đất tranh chấp.

+ Ông Nguyễn Văn Thịnh đã chết từ nhỏ, không có vợ con.

Nguồn gốc đất tranh chấp là do cha mẹ ông nhận chuyển nhượng của vợ chồng cụ Nghĩa, cụ Ngân. Ông mong muốn cụ K và ông K1 có thể thỏa thuận được, không muốn cha của ông khởi kiện ra Tòa án, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

- Ông Nguyễn Văn Mạc thống nhất với lời trình bày của ông Th1: Hiện nay cụ K tranh chấp với ông K1 ông không có ý kiến gì, ông không tranh chấp và không có yêu cầu gì trong vụ án này.

- Theo lời trình bày của bà Nguyễn Thị H4 thì: Quá trình giải quyết vụ án bà có trình bày cụ K đã cho vợ chồng bà diện tích đất 396m2 (đo đạc thực tế 370m2), thửa 48, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng vào năm 2003, khi cho có lập giấy viết tay. Tuy nhiên nay bà khẳng định lại vào năm 2003 cụ K có cho vợ chồng bà diện tích đất này nhưng không lập giấy tờ gì mà chỉ bằng lời nói.

- Theo ông Nguyễn Văn Hoạch trình bày thì: Vợ cụ K là chị ruột của cha ông, ông K1 có quan hệ họ hàng bên nhà vợ ông. Ông sinh ra và lớn lên tại thôn LV, xã LX, huyện ĐD, từ năm 1981 khi lập gia đình ông chuyển đến ở tại thửa đất số 73, liền kề với diện tích đất thửa 48 mà cụ K đang tranh chấp với ông K1, ông ở tại thửa đất số 73 cho đến nay. Thửa đất số 48 mà cụ K đang tranh chấp với ông K1 thì năm 1981 ông thấy có ông Nguyễn Văn N ở trên đất tranh chấp, sau một thời gian thì bà Vũ Thị Tròn (bà Mơ) ở một thời gian, sau đó đến ông Nguyễn Văn An ở một thời gian nhưng ông không nhớ cụ thể. Hiện trạng tại thửa đất số 48 là căn nhà tranh, còn lại là đất trống cỏ mọc, phần ranh của thửa 48 này với các thửa đất khác là hàng rào cây dâm bụt và vài sợi dây thép gai nhưng sau này bị bò phá hết, sau khi ông An rời đi thì căn nhà tranh chấp cũng bị phá bỏ, năm 2003 cụ K đến san ủi đất thì ông K1 đến tranh chấp, từ năm 2003 đến nay không ai sử dụng đất mà để đất H2ng. Theo họa đồ đo đạc ngày 26-12-2016 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng thì ông đang sử dụng 02m2 đất thuộc thửa 48, tờ bản đồ số 13, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng mà các bên đang tranh chấp, tuy nhiên cụ K và ông K1 không tranh chấp với ông diện tích đất này. Ông không có ý kiến và không có tranh chấp gì trong vụ án này, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

- Bà Trần Thị Khẩn trình bày: Bà không có quan hệ gì với cụ K, vợ chồng ông K1, bà Tân, bà sinh ra và lớn lên tại miền Bắc, năm 1985 bà chuyển vào ĐD và nhận chuyển nhượng Quyền sử dụng đất của ông Cảnh tại thôn LV, xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng (thửa 47, tờ bản đồ số 13, xã LX) để sinh sống cho đến nay; cạnh thửa đất của bà là thửa đất số 48 được rào bằng dây thép gai nhưng bà không biết chủ sử dụng đất là ai. Tuy nhiên, sau một thời gian thì bà thấy cụ K đến bảo thửa đất số 48 là của cụ và nói bà thỉnh thoảng thắp nhang cho 02 ngôi mộ trên đất thửa 48 này, bà hỏi mộ ai thì cụ K nói mộ của hai người làm công của cụ Huỳnh Công N là người đã chuyển nhượng thửa đất này cho cụ K, hai ngôi mộ nay hiện nay đã bị múc đi, thửa đất số 48 bà thấy có một thời gian bà Vũ Thị Tròn (bà Mơ) sử dụng và làm căn nhà tranh trên đất khoảng hơn 10m2 rồi sau đó chuyển đi, bà không nhớ thời gian cụ thể, sau khi bà Tròn đi thì có một số người đến ở nhưng bà không biết tên và không nhớ thời gian họ chuyển đi. Năm 2003 gia đình cụ K có thuê máy múc đến múc đất, san ủi thửa đất số 48 nhưng không ai sử dụng đất mà chỉ có bà H4 là người sử dụng diện tích đất này, từ trước đến nay bà không thấy vợ chồng ông Vũ Văn K1 sử dụng thửa đất này. Theo họa đồ đo vẽ ngày 16-12-2016 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện ĐD thì bà có sử dụng diện tích đất 10m2, thuộc một phần thửa 48, tờ bản đồ số 13, xã LX, huyện ĐD thì cụ K và ông K1 không tranh chấp với bà diện tích đất này. Bà không có ý kiến gì, không tranh chấp và không liên quan gì đến vụ án này, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định cuả pháp luật.

- Đối với ông Nguyễn Văn Tân thì cũng trình bày có đất gần phần diện tích đất các bên tranh chấp, hiện nay ông có sử dụng diện tích đất 14m2, thuộc một phần thửa 48, tờ bản đồ số 13, xã LX, huyện ĐD thì cụ K và ông K1 không tranh chấp với ông diện tích đất này. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Theo lời trình bày của ông Dương Đức Đại, người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng, thì:

Ông Vũ Văn K1 được Ủy ban nhân dân huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng xét cấp Quyền sử dụng đất theo Quyết định số 123/QĐ-UB ngày 20-11-1998, trong đó có thửa đất số 141, diện tích đất 2.097m2 DRM và thửa 48, diện tích 369m2 (đất thổ cư), tổng diện tích là 2.475m2.

Gia đình cụ Nguyễn Văn K sang nhượng lại 2.850m2 đất của cụ Huỳnh Công N, trong đó có 396m2, thuộc thửa 48, tờ bàn đồ 13, xã LX, huyện ĐD từ năm 1969 sử dụng cho đến năm 2013. Khi cụ K tiến hành san ủi đất thì ông K1 mới ra ngăn cản và tranh chấp Quyền sử dụng đất với ông K.

Đối với gia đình ông Vũ Văn K1, năm 1977 cụ Huỳnh Công N cho ông K1 diện tích 396m2, thửa 48, tờ bản đồ số 13, xã LX, huyện ĐD, đến năm 1998 ông K1 được Ủy ban nhân dân huyện ĐD cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng số L498824 ngày 20-11-1998. Mặc dù gia đình ông K1 được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất nhưng không sử dụng diện tích đất này từ khi được cấp Giấy chứng nhận, cho đến năm 2013 mới tranh chấp với gia đình cụ K. Hơn nữa, năm 1998 ông K1 được cấp thửa đất số 48, diện tích 369m2 là loại đất thổ cư nhưng thực tế ông K1 không có nhà ở trên diện tích đất này mà cụ K là người đang sử dụng và sản xuất nông nghiệp. Ủy ban nhân dân huyện ĐD đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án số 05/2017/DS-ST ngày 24-5-2017 của Tòa án nhân dân huyện ĐD đã xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn K về việc “Tranh chấp Quyền sử dụng đất” với bị đơn ông Vũ Văn K1.

Buộc bị đơn ông Vũ Văn K1 trả lại cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn K diện tích 370m2 đất thuộc thửa 48, tờ bản đồ 13, xã LX, huyện ĐD (có họa đồ kèm theo).

Hủy Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số L 498824 ngày 20-11-1998 do Ủy ban nhân dân huyện ĐD cấp cho ông Vũ Văn K1 với diện tích 396m2, thửa 48, tờ bản đồ số 13, xã LX, huyện ĐD.

Nguyên đơn có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất theo quy định.

Tại Bản án số 79/2017/DS-PT ngày 06-9-2017, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã xử:

Hủy Bản án sơ thẩm số 05/2017/DS-ST ngày 24-5-2017 của Tòa án nhân dân huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng về việc “Tranh chấp Quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn K và bị đơn ông Vũ Văn K1.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng thụ lý, giải quyết lại theo thủ tục chung.

Tại bản án số 09/2021/DS-ST ngày 15-6-2021 Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã quyết định:

Căn cứ các Điều 688, 697 Bộ luật Dân sự năm 2005, các Điều 100, 203 Luật Đất đai năm 2013.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Văn K về việc: “Tranh chấp Quyền sử dụng đất và Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất” đối ông Vũ Văn K1. Tuyên xử:

1. Công nhận lô đất có diện tích 370m2 thuộc thửa 48, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng thuộc quyền sử dụng của cụ Nguyễn Văn K (có sơ đồ thửa đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện ĐD thực hiện ngày 26-12-2016 kèm theo).

2. Hủy một phần Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số L498824 do Ủy ban nhân dân huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng cấp cho ông Vũ Văn K1 ngày 20-11-1998 đối với diện tích đất thuộc thửa 48, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng.

3. Cụ Nguyễn Văn K được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được đăng ký kê khai, điều chỉnh biến động và cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất theo quy định.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng khác, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các đương sự người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn và đại diện theo ủy quyền của bị đơn vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

Đại diện Viện K sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh phát biểu: Về việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Diện tích 370m2, thửa 48, tờ bản đồ 13, tại xã LX thuộc quyền quản lý, sử dụng của nguyên đơn. Tòa án sơ thẩm hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L 498824 ngày 20-11-1998 cấp cho ông Vũ Văn K1 đối với diện tích 396 m2, thửa 48, tờ bản đồ 13, tại xã Lạc Sơn, huyên ĐD, tỉnh Lâm Đồng. Đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; thẩm tra công khai tại phiên tòa; nghe ý kiến trình bày của người đại diện cho nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan; quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện K sát nhân dân cấp cao tại tại thành phố Hồ Chí Minh, các văn bản pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự trên theo quy định pháp luật (Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự).

[2] Xét đơn kháng cáo của ông Vũ Văn K1, Hội đồng xét xử thấy rằng: Nguồn gốc đất tranh chấp do vợ chồng cụ Huỳnh Công N, cụ Trần Thị Ngân đã bán cho cụ Nguyễn Văn K, Nguyễn Thị Thuận với giá bạc 30.000 đồng vào năm 1969 và các bên đã nhận đầy đủ tiền và giao đất. Sau khi cụ K nhận và sử dụng đất nhưng chưa đăng ký, kê khai 2850m2 đất để được cấp giấy chứng nhận theo quy định pháp luật. Song, ông Vũ Văn K1 đã kê khai 370m2/2850m2 thuộc thửa 48, tờ bản đồ 13 năm1998. Ông K1 cho rằng vợ thứ 2 của cụ Huỳnh Công N cho cha vợ của ông K1 là ông Nguyễn Văn T và ông T cho vợ chồng ông K1 năm 1998. Việc ông K1 được cấp giấy chứng nhận nhưng thực tế không sử dụng đất từ trước cho đến nay. Đồng thời, ông K1 khai bà T ở trên đất tranh chấp năm 1987 sau đó cho ông N ở nhờ nhưng lời khai của những người này mâu thuẫn về thời gian và vị trí thửa đất (bà T khai bà ở trên đất này năm 1994-1996). Lời khai của ông Nguyễn Văn Q thể hiện:“...khoảng năm 1977, 1978 thì Nguyễn Văn N (em ruột tôi) có làm nhà gần đất nhà tôi, cách diện tích đất đang tranh chấp khoảng 25m”. Ông Q còn khẳng định biết rõ nguồn gốc đất thửa 48 nay đã cấp cho ông K1 là đất của ông K đã nhận chuyển nhượng từ vợ chồng cụ Nghĩa, cụ Ngân và nếu đất cấp cho ông K1 thì lô đất không có lối đi vào. Các hộ dân liền kề đều xác định từ trước đến nay chưa từng thấy gia đình ông K1 sử dụng thửa đất, xung quanh thửa đất này là đất của cụ K vì cụ đã rào kĩ, thỉnh thoảng bà H4 đến bơm thuốc diệt cỏ.

[3] Mặt khác, tại Biên bản K tra hồ sơ xét duyệt đăng ký đất năm 1998 thể hiện, diện tích đất thửa 48, tờ bản đồ 13 bị cấp trùng thửa khác nhưng Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ĐD vẫn đồng ý cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Vũ Văn K1 vào ngày 20-11-1998 là vi phạm trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận. Mặc dù, ông K1 đã có giấy chứng nhận nhưng không sử dụng diện tích đất liên tục từ khi được cấp giấy chứng nhận đến khi tranh chấp đất năm 2013. Tại thời điểm ông K1 được cấp giấy chứng nhận thửa 48 với diện tích 369m2 là loại đất thổ cư nhưng thực tế cụ K là người đang sử dụng là đất sản xuất nông nghiệp.

[4] Đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất L498824 do Ủy ban nhân dân huyện ĐD cấp cho ông Vũ Văn K1 ngày 20-11-1998: Như phân tích tại phần [2], [3] việc Ủy ban nhân dân huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông K1 đối với thửa 48, tờ bản đồ số 13 xã LX, ĐD, Lâm Đồng là không đúng trình tự, thủ tục và không đúng đối tượng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất L498824 cấp cho ông Vũ Văn K1 nêu trên là đúng pháp luật.

Ngoài ra, vợ chồng bà H4 được cụ K viết giấy tay sang nhượng đất và bà Khẩn, ông Hoạch, ông Tân có sử dụng một phần diện tích đất thuộc thửa 48 nhưng không tranh chấp nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, giải quyết là phù hợp pháp luật, nếu sau này các bên phát sinh tranh chấp có thể khởi kiện bằng vụ án dân sự khác.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Chấp nhận quan điểm của Viện K sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Về án phí: Ông Vũ Văn K1 là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 20-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn ông Vũ Văn K1. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2021/DS-PT ngày 15-6-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng. Tuyên xử:

Áp dụng các Điều 688, 697 Bộ luật Dân sự năm 2005, các Điều 100, 203 Luật Đất đai năm 2013.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Văn K đề ngày 25-02-2014.

1. Công nhận lô đất có diện tích 370m2, thửa 48, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng thuộc quyền sử dụng của cụ Nguyễn Văn K (có sơ đồ thửa đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện ĐD thực hiện ngày 26- 12-2016 kèm theo).

2. Hủy một phần Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số L 498824 do Ủy ban nhân dân huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng cấp cho ông Vũ Văn K1 ngày 20-11-1998 đối với diện tích đất thuộc thửa 48, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại xã LX, huyện ĐD, tỉnh Lâm Đồng.

3. Cụ Nguyễn Văn K được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được đăng ký kê khai, điều chỉnh biến động và cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất theo quy định.

II. Về án phí: Ông Vũ Văn K1 được miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 20 - 4 - 2023./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 214/2023/DS-PT

Số hiệu:214/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về