Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 68/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 68/2022/DS-PT NGÀY 07/04/202VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

Ngày 07 tháng 04 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 374/2020/TLPT-DS ngày 16 tháng  12 năm 2020 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2020/DS-ST ngày 06/8/2020 của Toà án nhân dân tỉnh B bị kháng  cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2350/2022/QĐ-PT  ngày 21 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh Hoàng Hoa K, sinh năm 1975 và chị Lê Thị Hồng T,  sinh năm 1980;

Cùng cư trú tại: Kho V, cục Q, T1, S, thành phố H. Có mặt anh K, chị T có  đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

* Bị đơn: Anh Phạm Đình C, sinh năm 1975 và bà Hoàng Thị C1, sinh năm  1943; Người đại diện theo ủy quyền của bà C1: anh Phạm Đình C, theo văn bản ủy quyền ngày 28/02/2022  Cùng địa chỉ: Thôn Đ, thị trấn G, huyện G, tỉnh B, có mặt anh C.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Trần Thị N, sinh năm 1953; Địa chỉ: Thôn Đ, thị trấn G, huyện G, tỉnh B; Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt  - Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh B; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Viết L - Trưởng phòng tài nguyên môi trường huyện G, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là anh Hoàng Hoa K và chị Lê Thị Hồng T do chị Đặng Thị H1 đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngày 06/7/2001, Ủy ban nhân dân huyện G có Quyết định số 229/QĐ-UB v/v cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho các hộ gia đình, cá nhân thôn Đ, trong đó có hộ gia đình nhà anh (ông Hoàng Đăng K1 và bà Trần Thị N), gồm thửa đất số 106, tờ bản đồ số 26, diện tích 479m2, mục đích sử dụng: T, thời hạn sử dụng: Lâu dài; thửa đất số 107, tờ bản đồ số 26, diện tích  104m2, mục đích sử dụng: A, thời hạn sử dụng: Lâu dài; thửa đất số 83, tờ bản  đồ số 26, diện tích 122m2, mục đích sử dụng: A, thời hạn sử dụng: Lâu dài, vào sổ địa chính số 00349 ngày 10/7/2001. Tổng khuôn viên của 3 thửa đất kích thước như sau: Cạnh phía Bắc giáp hộ ông Hoàng Đăng C2, bà Hoàng Thị C3 dài 22,64m, (gồm 2 đoạn 17,33m và 5,31m); cạnh phía Nam giáp đường giao thông xóm dài 26,37m (gồm hai đoạn 10,55m và 15,82m); cạnh phía Đông giáp đường đi vào hộ ông X, ông C2 dài 28,41m (gồm 3 đoạn 20,96m, 5,7m và  1,75m) cạnh phía Tây giáp hộ bà Hoàng Thị C1 dài 27,83m.

Ngày 06/7/2001, UBND huyện G có Quyết định số 229/QĐ-UB về việc cấp GCNQSDĐ cho các hộ gia đình, cá nhân thôn Đ, trong đó có hộ gia đình hộ bà Hoàng Thị C1, vào sổ địa chính số 00208, thửa đất số 447, tờ bản đồ số 26, diện tích 614m2, mục đích sử dụng: T, thời hạn sử dụng: Lâu dài; thửa đất có tứ cận tiếp giáp: Cạnh phía Bắc giáp hộ ông Hoàng Đăng N1 dài 18,34m; cạnh phía Nam giáp đường giao thông xóm dài 22,86m; cạnh phía Đông dài 29,19m (0,74m giáp hộ bà Hoàng Thị C3, 27,83m giáp hộ ông Hoàng Đăng K1 và  0,62m giáp đường đi của xóm); cạnh phía Tây giáp đường đi vườn cây các cụ dài 29,49m (gồm 3 đoạn 7,24m; 4,31m và 11,94m) cạnh phía Tây giáp hộ bà Hoàng Thị C1 dài 27,83m.

Ngày 06/7/2017, UBND thị trấn G tổ chức đo đạc bằng máy trắc địa, theo kết quả đo đạc thì hộ bà Hoàng Thị C1 hiện đang sử dụng 609,69m2, thiếu so với GCNQSDĐ là 4,21m2, cạnh phía Nam thửa đất của hộ bà C1 thiếu 0,32m.

Gia đình anh K hiện đang sử dụng 700,2m2, thiếu so với GCNQSDĐ 4,2m2. Hiện  trạng  sử  dụng  đất  của  hộ  gia  đình  nhà  anh  so  với  ranh  giới  cấp GCNQSDĐ: Phía Nam xây tường lấn ra 9,2m2; phía Đông (giáp đường đi vào hộ ông X, ông C2) gia đình anh xây tường lùi vào 17m2; 3,8m2  đất phía Tây (tiếp giáp với hộ bà C1) có hình tam giác từ phía Nam kéo dài về phía Bắc; cạnh phía Nam của tam giác là 0,32m đang là vị trí tranh chấp giữa hộ gia đình nhà anh với đất hộ bà C1.

Năm 2011, ông Hoàng Đăng K1 và bà Trần Thị N (bố mẹ anh) tặng cho quyền sử dụng đất các thửa đất nêu trên cho 02 con trai là Hoàng Hoa K và Hoàng Đăng C4, cụ thể: Thửa đất số 629, tờ bản đồ 20, diện tích 305m2  được cấp GCNQSDĐ mang tên ông Hoàng Hoa K, bà Lê Thị Hồng T, giáp đất nhà bà C1. Thửa đất số 630, tờ bản đồ 20, diện tích 399m2  mang tên anh Hoàng Đăng C4, giáp đất nhà anh K.

Nay anh K cho rằng tại phần tiếp giáp giữa thửa đất số 629, tờ bản đồ số 20 và thửa đất của gia đình bà C1, gia đình anh đã xây dựng một ngôi nhà từ năm  1990. Ngày 06/7/2001, UBND huyện G cấp GCNQSDĐ cho hộ bà Hoàng Thị  C1 có kích thước cạnh phía Nam của thửa đất là 22,86m (gồm 02 đoạn 3,62m +  19,24m) là đã cấp sang phần đất của gia đình anh 0,32m, phần đất cấp lấn có hình tam giác với diện tích là 3,82m2. Do đó, anh K, chị T đề nghị Tòa án buộc hộ bà C1, anh C trả lại quyền sử dụng 3,82m2 đất bị cấp vào GCNQSDĐ của gia đình bà C1 như nêu trên; tuyên hủy GCNQSDĐ cấp cho hộ bà C1 đối với thửa số 447, tờ bản đồ 26, diện tích 614m2.

Phía bị đơn là anh Phạm Đình C và bà Hoàng Thị C1 do anh C đại diện theo ủy quyền trình bày: Năm 2001, gia đình anh được cấp sổ đỏ mang tên hộ bà Hoàng Thị C1 với diện tích 614m2, khi làm thủ tục cấp giấy thì gia đình anh và gia đình nguyên đơn là ông Hoàng Đăng K1 (bố anh K) đã ký vào đơn xin đăng ký cấp GCNQSDĐ. Sau đó cơ quan có thẩm quyền mới cấp GCNQSDĐ cho 2 hộ. Trên sơ đồ cấp đất cho 2 hộ vào năm 2001 thể hiện: Cạnh phía Nam thửa đất nhà anh được cấp là 22,86m; cạnh phía Nam của gia đình nguyên đơn được cấp là 26,37m. Nay cạnh phía Nam thửa đất nhà anh còn 22,54m, thiếu 0,32m so với GCNQSDĐ. Cạnh phía Nam của gia đình ông K1 được cấp 26,85m, đã thừa ra  0,32m, số liệu trên đã được UBND thị trấn G xác nhận khi hòa giải vào ngày  13/7/2017.

Nay gia đình anh K khởi kiện đòi gia đình anh 3,8m2  đất trên là không đúng, bởi lẽ diện tích đất 3,8m2 được gia đình ông K1 xây dựng bức tường rào   vào năm 2009 đã xây lấn sang diện tích đất của nhà anh. Về yêu cầu hủy sổ đỏ mang tên bà Hoàng Thị C1, anh không đồng ý vì gia đình anh đã sống ổn định trên 50 năm, đồng thời đóng thuế đầy đủ với nhà nước; gần đây nhất ngày  18/7/2011 UBND huyện G đã cấp GCNQSDĐ mang tên mẹ anh là bà Hoàng Thị C1, việc cấp GCNQSDĐ được thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.

Anh C đề nghị Tòa án xem xét phần diện tích đất theo GCNQSDĐ đã cấp để buộc bên nguyên đơn trả lại cho gia đình anh; đồng thời buộc phá dỡ bức tường xây dựng trên đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình anh. Đối với yêu cầu của nguyên đơn anh đề nghị Tòa án bác yêu cầu đòi quyền sử dụng  3,82m2  đất và yêu cầu hủy GCNQSDĐ của gia đình anh. Tại phiên họp công  khai chứng cứ và hòa giải ngày 22/4/2020, anh C đã thay đổi yêu cầu khởi kiện theo kết quả thẩm định, đo đạc phần diện tích đất tranh chấp thực tế là 3,3m2. Nên đề nghị Tòa án buộc anh K, chị T trả lại 3,3m2  (tại phần giáp ranh giữa 2 thửa đất) đã xây lấn và phải tháo dỡ các công trình đã xây dựng trên diện tích đất đó.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị N trình bày: Gia đình bà đã sử dụng các thửa đất số 106, 107 và thửa 83 do các cụ để lại. Đến năm 2001 được cấp GCNQSDĐ mang tên hộ ông Hoàng Đăng K1. Năm 2011 các thửa đất trên được tách thành 02 thửa đất, gồm: Thửa số 629, diện tích  305m2 mang tên anh Hoàng Hoa K, chị Lê Thị Hồng T và thửa đất số 630, diện  tích 399m2 mang tên anh Hoàng Đăng C4. Trên thửa đất của gia đình bà mà hiện  anh K, chị T đang sử dụng có 01 ngôi nhà được vợ chồng bà xây dựng từ năm  1990. Khi xây nhà vợ chồng bà cũng xây 01 bức tường để ngăn với thửa đất hộ bà Hoàng Thị C1. Khi xây nhà, xây tường thì gia đình bà C1 không ai có ý kiến gì, thời gian này cả hai gia đình đều chưa được cấp GCNQSDĐ.

Đến năm 2003, vì bức tường đã cũ và thấp nên gia đình bà đã xây mới lại, hiện nay phần gần đường đi vẫn còn móng cũ dài khoảng 3m, sâu khoảng 20cm.

Năm 2001, UBND huyện G cấp GCNQSDĐ cho hộ bà C1 có cạnh phía Nam giáp đường giao thông xóm dài 22,86m (gồm 2 đoạn 3,62m + 19,24m). Với chiều dài cạnh này theo GCNQSDĐ thì hộ bà C1 đã lấn sang đất nhà bà (nay là thửa đất của anh K, chị T) là 0,32m với diện tích là 3,82m2; trên diện tích đất này có bức tường mà vợ chồng bà đã xây dựng từ năm 1990.

Chồng bà là ông Hoàng Đăng K1 đã chết vào ngày 01/6/2016. Bà hoàn toàn đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng Hoa K và chị Lê Thị Hồng T   buộc hộ bà C1, anh C trả lại cho anh K, chị T quyền sử dụng 3,82m2  đất tranh chấp nêu trên và tuyên hủy GCNQSDĐ cấp cho hộ bà Hoàng Thị C1 thửa số  447, tờ bản đồ 26, diện tích 614m2 tại thôn Đ, thị trấn G, huyện G, tỉnh B.

Người đại diện theo ủy quyền của UBND huyện G do ông Nguyễn Viết Lâm trình bày: Đối với thửa đất số 447, diện tích 614m2  cấp cho hộ bà C1 căn cứ quyết định số 229 ngày 06/7/2001 của UBND huyện G, hộ bà Hoàng Thị C1 đã được UBND huyện G cấp GCNQSD đất đối với thửa đất số 447, tờ bản đồ  26, diện tích 614m2. Năm 2002, sau khi thành lập thị trấn G, thửa đất trên thuộc  thửa đất số 180, tờ bản đồ 20, diện tích 614m2.

Đối với thửa đất số 629, tờ bản đồ 20, diện tích 305m2 của anh Hoàng Hoa K, chị Lê Thị Hồng T. Ngày 27/5/2011, ông Hoàng Đăng K1 và bà Trần Thị N có hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho anh K, chị T. Ngày 19/9/2011, UBND huyện G đã cấp GCNQSD đất cho hộ anh K, chị T tại thửa đất số 629, tờ bản đồ 20, diện tích 305m2.

Quan điểm của UBND huyện G về việc cấp GCNQSD đất cho hộ bà Hoàng Thị C1 tại thửa số 447 và việc cấp GCNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ anh K, chị T tại thửa số 629 là phù hợp theo quy định của pháp luật.

Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, ông không có ý kiến gì. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2020/DS-ST ngày 06/8/2020 của Toà án nhân dân tỉnh B đã căn cứ Điều 26, 34, 37, 38, 39, 147, 157, 165, 227, 228,  271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 32 Luật tố tụng hành chính; Điều 163, 164,  166, 579, 580 Bộ luật Dân sự; Điều 166, 203 Luật Đất đai; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng Hoa K và chị Lê Thị Hồng T đề nghị Tòa án công nhận quyền sử dụng 3,3m2 đất đã được cấp vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình bà C1 và không chấp nhận yêu cầu Tòa án tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 499737 do UBND huyện G cấp cho hộ bà Hoàng Thị C1 đối với thửa đất số 447, tờ bản đồ số 26, diện tích 614m2 tại địa chỉ thôn Đ, xã Xuân Lai, huyện G, tỉnh B (nay là thị trấn Đ, huyện G, tỉnh B).

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của anh Phạm Đình C.

Buộc anh Hoàng Hoa K, chị Lê Thị Hồng T phải trả lại cho hộ gia đình bà Hoàng Thị C1, anh Phạm Đình C diện tích 3,3m2  đất. Phần đất có hiện trạng là một hình tam giác, có tứ cận tiếp giáp cụ thể: Cạnh phía Tây tiếp giáp thửa đất gia đình hộ bà C1 là đoạn CBA dài 22,05m; cạnh phía Nam tiếp giáp với đường xóm là đoạn C, D dài 0,3m; cạnh phía Đông tiếp giáp với thửa đất gia đình anh K, chị T là đoạn DA; cạnh phía Bắc là điểm A (có sơ đồ chi tiết kèm theo).

Buộc anh Hoàng Hoa K, chị Lê Thị Hồng T phải có nghĩa vụ tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trên phần đất 3,3m2 của hộ bà Hoàng Thị C1.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 19/8/2020, nguyên đơn anh Hoàng Hoa K có đơn kháng cáo toàn bộ  bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm: nguyên đơn anh Hoàng Hoa K giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo.

Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm thể hiện: Tòa án nhân dân tỉnh B không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn giữ nguyên quyết định của  bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên  tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền: Nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án công nhận quyền sử dụng 3,3m2 đất gia đình anh đang sử dụng nhưng bị cấp vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình bà C1 và đề nghị Tòa án tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 499737 do UBND huyện G cấp cho hộ bà Hoàng Thị C1 đối với thửa đất số 447, tờ bản đồ số 26, diện tích 614m2 tại địa chỉ thôn Đ, xã Xuân Lai, huyện G, tỉnh B.

Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác định quan hệ pháp luật là: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại khoản 9 Điều 26, Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính. Tòa án nhân dân tỉnh B thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[1.2] Tại phiên toà, nguyên đơn là chị Lê Thị Hồng T, bị đơn là bà Hoàng Thị C1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị N, đại diện UBND huyện G có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy:

[2.1] Về quá trình biến động của thửa đất đang có tranh chấp:

Ngày 06/7/2001, UBND huyện G có quyết định số 229/QĐ-UB v/v cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân thôn Đ. Hộ gia đình ông Hoàng Đăng K1 và bà Trần Thị N (là bố mẹ anh K) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 03 thửa đất gồm: thửa đất số 106, tờ bản đồ số 26, diện tích 476m2; thửa đất số 107, tờ bản đồ số 26, diện tích 104m2; thửa đất số  83, tờ bản đồ số 26, diện tích 122m2. Tổng 3 thửa đất có diện tích 702m2;  khuôn  viên của 03 thửa đất kích thước như sau: Cạnh phía Bắc giáp hộ ông Hoàng Đăng C2, bà Hoàng Thị C3 dài 22,64m (gồm 2 đoạn 17,33m và 5,31m); cạnh phía  Nam  giáp  đường  đi  của  xóm  dài  26,37m  (gồm  hai  đoạn  10,55m  và  15,82m); cạnh phía Đông giáp lối đi vào hộ ông X, ông C2 dài 28,41m (gồm 3 đoạn 20,96m; 5,7m và l,75m) cạnh phía Tây giáp hộ bà Hoàng Thị C1 dài  27,83m.

Hộ gia đình bà Hoàng Thị C1 (mẹ anh C) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất tại số 447, tờ bản đồ số 26, diện tích 614m2. Thửa đất có tứ cận như sau: Cạnh phía Bắc giáp hộ ông Hoàng Đăng N1 dài 18,34m; cạnh phía Nam giáp đường đi của xóm dài 22,86m; cạnh phía Đông dài 29,19m (0,74m giáp hộ bà Hoàng Thị C3, 27,83m giáp hộ ông Hoàng Đăng K1 và 0,62m giáp đường đi của xóm); cạnh phía Tây giáp đường đi vườn cây các cụ dài 29,49m (gồm 3 đoạn 7,24m; 4,31m và 11,94m).

Năm 2011, ông Hoàng Đăng K1 và bà Trần Thị N làm thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất các thửa đất nêu trên cho anh Hoàng Hoa K và Hoàng Đăng C4 và tách thành 02 thửa. Thửa đất số 629, tờ bản đồ 20, diện tích 305m2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) mang tên anh Hoàng Hoa K, chị Lê Thị Hồng T (thửa giáp đất gia đình bà C1) và thửa đất số 630, tờ bản đồ 20, diện tích 399m2 mang tên anh Hoàng Đăng C4, giáp đất nhà anh K.

Quá trình sử dụng hai bên phát sinh tranh chấp. Ngày 06/7/2017, UBND thị trấn G tổ chức đo đạc bằng máy trắc địa, theo kết quả đo đạc thì hộ bà Hoàng Thị C1 hiện đang sử dụng 609,69m2, thiếu so với GCNQSDĐ là 4,21m2, cạnh phía Nam thửa đất của hộ bà C1 thiếu 0,32m.

Theo anh Hoàng Hoa K thì gia đình anh đang sử dụng 700,2m2, thiếu  4,2m2 so với GCNQSĐĐ. Hiện trạng sử dụng đất của hộ gia đình nhà anh K so với ranh giới cấp GCNQSDĐ như sau: Phía Nam xây tường lấn ra 9,2m2; phía Đông (giáp lối đi vào hộ ông X, ông C2) gia đình anh xây tường lùi vào 17m2; đối với phần đất phía Tây tiếp giáp với hộ bà C1 gia đình anh thiếu 3,3m2 hình tam giác có cạnh phía Nam là 0,32m kéo dài về phía Bắc, trên thực tế phần diện tích đất này gia đình anh K đang quản lý sử dụng, nhưng lại thuộc phần đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ bà Hoàng Thị C1.

Bị đơn anh Phạm Đình C xác định gia đình anh được cấp sổ đỏ mang tên hộ bà Hoàng Thị C1 với diện tích 614m2 từ năm 2001. Diện tích đất 3,8m2 được gia đình ông K1 xây dựng bức tường rào vào năm 2009 đã xây lấn sang diện tích đất của nhà anh. Anh C có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án xem xét phần diện tích đất theo GCNQSDĐ đã cấp để buộc bên nguyên đơn trả lại cho gia đình anh; đồng thời buộc nguyên đơn phá dỡ bức tường xây dựng trên đất tranh chấp.

[2.2]. Xét kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy:

Ngày 06/7/2001, UBND huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Hoàng Thị C1 với diện tích 614m2, có kích thước cạnh phía Nam của thửa đất là 22,86m (gồm 02 đoạn 3,62m và 19,24m) tiếp giáp với gia đình anh Hoàng Hoa K. Anh K cho rằng tại phần tiếp giáp giữa thửa đất số 629, tờ bản đồ số 20 hiện đứng tên anh và thửa đất số 447 tờ bản đồ số 26 của gia đình bà C1, gia đình anh đã xây dựng một ngôi nhà từ năm 1990 và có tường ngăn cách giữa hai nhà. UBND huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Hoàng Thị C1 là đã cấp sang phần đất của gia đình anh 0,32m, phần đất cấp lấn có hình tam giác với diện tích là 3,3m2.

Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, kết quả hiện trạng thể hiện: cạnh phía Nam thửa đất của hộ bà C1 có chiều dài là 22,56m (gồm 2 đoạn 3,62m và 18,94m) so với sơ đồ kỹ thuật khi cấp GCNQSDĐ là 22,86m thì cạnh phía Nam bị thiếu 0,3m. Hiện trạng cạnh phía Nam thửa đất gia đình  anh K có chiều dài 26,85m (gồm 3 đoạn 0,3m; 10,87m và 15,68m) so với sơ đồ kỹ thuật khi cấp GCNQSDĐ là 26,37m thì cạnh phía Nam thừa 0,48m. Anh K cho rằng việc thẩm định mốc giới công trình trên đất là chưa rõ, nên đề nghị thẩm định lại hiện trạng phần móng nhà và móng tường do gia đình anh xây dựng để xác định mốc giới. Theo biên bản thẩm định tại chỗ ngày 05/5/2020 thể hiện tại vị trí góc phía Bắc phần tiếp giáp giữa 02 thửa đất của gia đình anh C và thửa   đất gia đình anh K, phần móng tường hồi ngôi nhà chính và tường sau ngôi nhà trần gia đình anh K xây dựng năm 1990: Tiến hành đào 01 hố (sâu 01m, rộng  30cm, dài l,6m) thì thấy phần hẹ móng tường hồi ngôi nhà chính nhô ra 04cm sang phía đất nhà bà C1, kế tiếp là phần móng tường sau ngôi nhà trần hẹ móng xây giật 3 cấp, hẹ móng cấp thứ nhất nhô bằng hẹ móng tường hồi ngôi nhà chính là 4cm, hẹ móng cấp thứ hai và cấp thứ ba xây nhô so với hẹ móng cấp thứ nhất là 6cm. Tiếp đến khi thẩm định tại vị trí móng bức tường ngăn cách giữa hai gia đình anh C và gia đình anh K tại vị trí giữa bức tường (cách cạnh phía Nam khoảng 10m) tiến hành đào 01 hố (sâu khoảng 25cm, rộng 20cm, dài  50cm) thì thấy phần móng tường bao xây bằng đá nằm âm vào phía trong so với phần tường phía trên là 06cm. Như vậy, phần móng hồi ngôi nhà chính và tường sau ngôi nhà trần của gia đình anh K hẹ móng rộng 06cm nhưng phần tường rào nối tiếp chạy thẳng ra ngõ thì phần móng thụt sâu so với bức tường là 06cm (phần móng âm 06cm). Căn cứ vào sơ đồ kỹ thuật thửa đất do cơ quan quản lý đất đai cung cấp và kết quả thẩm định hiện trạng đã xác định được gia đình anh K đã xây dựng công trình lấn sang phần đất của gia đình anh C (đoạn từ điểm đầu tiên tại hồi phía Bắc ngôi nhà trần kéo dài xuống cạnh phía Nam của 02 thửa  đất).

Mặt khác, thửa đất anh K đang sử dụng có nguồn gốc của bố mẹ là ông Hoàng Đăng K1, bà Trần Thị N. Năm 2001 ông K1, bà N được nhà nước cấp GCNQSDĐ. Việc cấp GCNQSDĐ trên cơ sở các hộ dân tự kê khai và đã được kiểm tra phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền về quản lý đất đai. Tại phiên tòa sơ thẩm bà N thừa nhận khi xây dựng nhà chính vì lấy hướng nên xây chếch hướng đông nam nên móng nhà và móng tường không là một đường thẳng, khi làm hồ sơ cấp GCNQSDĐ gia đình bà có được ký xác định mốc giới. Từ sau khi cấp GCNQSDĐ giữa hai bên không có tranh chấp hay khiếu kiện. Bên cạnh đó, khi  cấp  GCNQSDĐ  đất  cho  hộ  ông  K1,  bà  N  thì  Nhà  nước  cũng  cấp GCNQSDĐ cho hộ bà C1 nên không có việc cấp đất chồng lấn đối với hai thửa đất. Đến năm 2011, ông K1, bà N nhập 03 thửa đất và chia thành 02 thửa để tặng cho anh K và anh C4. Cụ thể tặng cho anh K, chị T thửa đất số 629, tờ bản  đồ 20, diện tích 305m2; tặng cho anh C4 thửa đất số 630, tờ bản đồ 20, diện tích  399m2. Phần đất ông K1, bà N tặng cho anh K, chị T là đất đã được Nhà nước cấp GCNQSDĐ cho hộ ông K1. Như vậy, phần đất này không bao gồm phần đất mà anh K, chị T khởi kiện đòi hộ bà C1 vì theo GCNQSDĐ thì phần đất đó đã được cấp vào GCNQSDĐ của hộ gia đình bà C1. Việc anh K, chị T được sử   dụng diện tích 305m2 đất là đúng như hiện trạng mà ông K1, bà N tặng cho nên quyền lợi của anh K, chị T không bị xâm phạm. Mặt khác hiện trạng sử dụng đất của hộ gia đình nhà anh K so với ranh giới cấp GCNQSDĐ thể hiện: Phía Nam xây tường lấn ra 9,2m2; phía Đông (giáp lối đi vào hộ ông X, ông C2) gia đình anh K xây tường lùi vào 17m2. Đối chiếu với GCNQSDĐ cấp cho ông Hoàng Đăng K1 năm 2001 thì tổng diện tích đất hộ gia đình anh K đang sử dụng thừa so với GCNQSDĐ là 7,8m.

Ngoài ra, trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai tại địa phương, Ủy ban nhân dân thị trấn G đã tiến hành xác minh, xem xét hiện trạng có kết luận thể hiện: Theo GCNQSDĐ hộ bà C1 (anh C) thiếu 0,32m về phía Nam giáp hộ bà Trần Thị N tính từ mặt đường tiến về phía sau theo hình tam giác là 3,8m2 phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án. Từ đó có căn cứ xác định gia đình anh K đã xây lấn sang thửa đất của hộ gia đình bà C1, anh C tại cạnh phía Nam của thửa đất là  0,3m.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Hoàng Hoa K, chị Lê Thị Hồng T; chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn đề nghị buộc gia đình anh K, chị T phải trả lại cho gia đình bị đơn diện tích 3,3m2 đất và buộc tháo dỡ bức tường xây lấn trên đất là có căn cứ. Từ đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tại phiên tòa.

[3] Về chi phí tố tụng: Tòa án nhân dân tỉnh B đã buộc nguyên đơn phải chịu toàn bộ chi phí cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là có căn cứ.

Về án phí: anh Hoàng Hoa K kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,  Căn  cứ  khoản  1  Điều  308  Bộ  Luật  Tố  tụng  dân  sự;  Nghị  quyết  số  326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn anh Hoàng Hoa K. Giữ  nguyên  quyết  định  của  Bản  án  dân  sự  sơ  thẩm  số  17/2020/DS-ST  ngày  06/8/2020 của Toà án nhân dân tỉnh B.

2. Về án phí: Anh Hoàng Hoa K phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh K đã nộp tại Biên lai thu số 0001360  ngày 19 tháng 08 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh B.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 68/2022/DS-PT

Số hiệu:68/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 07/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về