Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 472/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 472/2022/DS-PT NGÀY 19/07/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 12 và 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 38/2022/TLPT-DS ngày 25 tháng 01 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2021/DS-ST ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1022/2022/QĐ-PT ngày 20 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Tô Thị Đ, sinh năm 1951 (có mặt); Địa chỉ: Ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.

- Đồng bị đơn:

1. Ông Ngô Văn L, sinh năm 1949 (vắng mặt);

2. Ông Tô Văn D, sinh năm 1971 (vắng mặt);

3. Bà Tô Thị T, sinh năm 1955 (có mặt);

Cùng địa chỉ: Ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.

Người đại diện theo ủy quyền của ông L và ông D: Ông Võ Hà T1, sinh năm 1991. Địa chỉ: Số 417A/1, P1, khu vực Y, phường L1, quận C, thành phố Cần Thơ (vắng mặt);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Tô Văn G1, sinh năm 1963 (đã chết) Địa chỉ: Ấp C1, xã L1, huyện Đ1, tỉnh Bạc Liêu

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Tô Văn G1 gồm:

1.1 Bà Nguyễn Thị L2, sinh năm 1962 (vắng mặt);

1.2 Ông Tô Hùng T2, sinh năm 1983 (vắng mặt);

1.3 Ông Tô Văn H, sinh năm 1986 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Ấp C1, xã L1, huyện Đ1, tỉnh Bạc Liêu

2. Ông Trịnh Văn T3, sinh năm 1954 (vắng mặt);

3. Bà Phạm Tuyết H1, sinh năm 1956 (vắng mặt);

4. Bà Tô Thị N, sinh năm 1964 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu

Người đại diện theo ủy quyền của bà N: Ông Võ Hà T1, sinh năm 1991. Địa chỉ: Số 417A/1, P1, khu vực Y, phường L1, quận C, thành phố Cần Thơ (vắng mặt);

5. Ủy ban nhân dân thị xã G, tỉnh Bạc Liêu Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Minh T4, chức vụ: Chủ tịch (vắng mặt);

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Thanh T5, chức vụ: Phó Trưởng phòng tài nguyên và môi trường thị xã G (vắng mặt);

6. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh thị xã G.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hà Thanh M, chức vụ: Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh thị xã G (vắng mặt);

Người đại diện theo ủy quyền :Ông La Hoàng N1 (vắng mặt);

- Người kháng cáo: Nguyên đơn là bà Tô Thị Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo nguyên đơn là bà Tô Thị Đ trình bày:

Phần đường nước này có nguồn gốc là của cha và mẹ của bà, vào khoảng năm 1993, năm 1994 thì cha mẹ bà ly thân nhau và thỏa thuận phân chia tài sản (chỉ thỏa thuận miệng) là (cụ Hồ Thị C2) sẽ hưởng phần miếng đất nhỏ và đường nước còn cha bà (cụ Tô Văn T6) thì hưởng miếng đất lớn. Miếng đất nhỏ diện tích khoảng 30 đến 40 công, đường nước diện tích theo đo đạc thực tế là 4.587,3m2, miếng đất lớn diện tích khoảng 50 đến 60 công.

Sau khi được hưởng miếng đất nhỏ thì đến năm 1996 thì cụ C2 bán cho bà Đ ½ diện tích đất của miếng đất nhỏ được chia cùng với đường nước (hiện có tranh chấp) với giá 35 chỉ vàng 24k. Còn ½ miếng đất nhỏ còn lại cụ C2 cho em trai thứ 9 của tôi tên Tô Văn D. Khi nhận chuyển nhượng đất của cụ C2 thì giữa bà Đ và cụ C2 không có làm giấy tờ, không có đo đạc, nhưng có chỉ ranh là từ mí ranh đất của ông R (đất ông R chuyển nhượng của Tô Văn D) qua đến mí ranh đất của bà Ngô Thị H2 (Nguyễn Văn V đang sử dụng bây giờ), trong đó bao gồm cả đường nước. Nhưng lúc chỉ ranh thì bà Đ không có ra chứng kiến, anh em của bà cũng không có ai chứng kiến nhưng sau này anh em bà Đ đều biết. Nhưng cụ C2 có chuyển tên cho bà Đ và bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 20/4/1996 với diện tích là 20.770m2, phần đất bà được cấp giấy chứng nhận này đúng với phần đất mà cụ C2 chuyển nhượng cho bà.

Sau khi nhận chuyển nhượng ½ đất (miếng đất nhỏ) thì phần đất này thì bà Đ sử dụng và có đường nước thoát riêng, còn đường nước diện tích 4.587,3m2 thì bà Đ cho cụ Tô Văn T6 mượn sử dụng (hiện tại cụ T6 đã chết), nhưng cho mượn không có làm giấy tờ. Đến năm 2013 thì cụ T6 không sử dụng nữa mà để lại cho bà T, ông L, ông D sử dụng từ đó bà không đồng ý nên có yêu cầu được lấy lại.

Ngày 27/6/2017 bà Tô Thị Đ có yêu cầu ông Ngô Văn L; ông Tô Văn G1 và bà Tô Thị T trả cho bàphần đất đường nước có diện tích 4.587,3m2 đất tại ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.

Ngày 24/9/2018 bà Tô Thị Đ có yêu cầu bổ sụng khởi kiện. Cụ thể bà có yêu cầu ông Ngô Văn L; bà Tô Thị T và ông Tô Văn D trả cho bà phần đất có đường nước theo đo đạc thực tế là 5.215,7m2 đất tại thửa số 282, 283 tờ bản đồ số 03, đất tọa lạc tại ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.

Các đồng bị đơn trình bày:

Ông Tô Văn L, ông Tô Văn D trình bày trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền là ông Võ Hải T1 trình bày:

Đồng bị đơn ông Ngô Văn L, ông Tô Văn D không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà Đ, đồng thời ngày 26/6/2018 ông Tô Văn D có yêu cầu phản tố yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 20/4/1996 cho bà Tô Thị Đ, diện tích là 5.215,7m2 đất tại thửa số 282, 283 tờ bản đồ số 03 được cấp theo quyết định số 234/QĐ-UB ngày 06/7/1995.

Nguồn gốc đường nước này trước đây là của chung cha và mẹ khai phá từ năm 1952 khai phá diện tích khoảng hơn 100 công đất (công tầm cấy). Phần đất khai phá này cha mẹ ông L, ông D chia ra làm hai phần đất, một phần đất lớn và một phần đất nhỏ.

Phần đất nhỏ diện tích khoảng 40 công dùng để sản xuất nông nghiệp, phần đất lớn còn lại khoảng 70 đến 80 công dùng để làm láng nuôi tôm. Trong đó miếng đất nhỏ có cống thoát nước bê tông riêng, còn miếng đất lớn được thoát nước bằng đường nước cũng xây dựng bằng cống bê tông và hiện có tranh chấp bây giờ với bề ngang khoảng 03 đến 04 tầm (bao gồm bờ và kênh) dài khoảng khoảng 300 đến 400m tiếp giáp với đất của bà Tô Thị Đ. Đến năm 1967 đến 1968 thì cha mẹ về ấp 5, thị trấn G để ở thì phần đất này để lại cho chị Tô Thị Đ, ông Tô Văn B và Tô Thị T ở lại trực tiếp quản lý, sử dụng phần đất này để làm nuôi gia đình. Đến khoảng năm 1996 - 1997 thì cha mẹ có cắt cho chị Tô Thị Đ diện tích khoảng 15 đến 16 công (tầm cấy) giáp với đất đường nước có tranh chấp bây giờ. Cắt phần đất thuộc miếng láng nhỏ, còn một phần miếng láng nhỏ thì cha và mẹ tôi để lại cho Tô Văn D quản lý sử dụng (có đường thoát nước riêng).

Trước khi bà Đ có yêu cầu và có tranh chấp thì đường nước này là của anh em sử dụng chung cho đến bây giờ. Còn việc bà Đ nói mẹ cụ Hồ Thị C2 chuyển nhượng cho bà Đ phần đường nước này thì ông L, ông D không đồng ý vì nếu sang đường nước này thì không có đường để thoát nước cho phần đất của miếng đất lớn mà cụ T6 sử dụng trước đây và hiện tại anh em đang sử dụng bây giờ.

Bị đơn là Tô Thị T trình bày:

Nguồn gốc đường nước này trước đây là của chung cha và mẹ là cụ Tô Văn T6 và Hồ Thị C2 có được do cha mẹ khai phá từ năm 1952 đến năm 1954 khai phá diện tích khoảng hơn 100 công đất. Phần đất khai phá này chia ra làm hai phần, một phần đất lớn và một phần đất nhỏ.

Phần đất nhỏ diện tích khoảng 40 công dùng để sản xuất nông nghiệp, phần đất lớn còn lại khoảng 70 đến 80 công dùng để làm láng nuôi tôm. Trong đó miếng đất nhỏ có cống thoát nước riêng, còn miếng đất lớn được thoát nước bằng đường nước hiện có tranh chấp bây giờ. Đến năm 1967 đến 1968 thì cha mẹ về ấp 5, thị trấn G để ở thì phần đất này để lại cho chị Tô Thị G2, ông Tô Văn B và bà ở lại trực tiếp quản lý, sử dụng phần đất này để làm nuôi gia đình. Đến khoảng năm 1996 thì cụ Hồ Thị C2 có bán cho bà Đ một phần đất thuộc miếng láng nhỏ cập với đường thoát nước. Còn một phần miếng láng nhỏ thì cụ C2 để lại cho Tô Văn D quản lý, sử dụng.

Đối với miếng láng lớn thì năm 1997 mới chia ra cho ông Tô Văn G1 diện tích 16,3 công (tầm cấy), chia cho Ngô Thanh L2 (chồng của Tô Thị N) diện tích 21.800m2, phần còn lại thì cha tôi là cụ Tô Văn T6 quản lý và sử dụng. Đến năm 2015 mới chuyển nhượng lại cho bà T phần đất này diện tích là 11,7 công.

Trước khi có tranh chấp với bà Đ thì theo bà biết thì đường nước này là nơi thoát nước cho miếng đất lớn được sử dụng từ trước cho đến bây giờ và do cha mẹ bà khai phá. Do đó, bà Đ nói của bà Đ thì bà không đồng ý.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Tô Văn G1 trình bày trong hồ sơ:

Nguồn gốc đường nước này trước đây là của chung cha và mẹ khai phá từ năm 1952 khai phá diện tích khoảng hơn 100 công đất (công tầm cấy). Phần đất khai phá này cha mẹ ông chia ra làm hai phần đất, một phần đất lớn và một phần đất nhỏ.

Phần đất nhỏ diện tích khoảng 40 công dùng để sản xuất nông nghiệp, phần đất lớn còn lại khoảng 70 đến 80 công dùng để làm láng nuôi tôm. Trong đó miếng đất nhỏ có cống thoát nước bê tong riêng, còn miếng đất lớn được thoát nước bằng đường nước cũng xây dựng bằng cống bê tong và hiện có tranh chấp bây giờ với bề ngang khoảng 03 đến 04 tầm (bao gồm bờ và kênh) dài khoảng khoảng 300 đến 400m tiếp giáp với đất của bà Tô Thị Đ. Đến năm 1967 đến 1968 thì cha mẹ về ấp 5, thị trấn G để ở thì phần đất này để lại cho chị Tô Thị Đ, ông Tô Văn B và Tô Thị T ở lại trực tiếp quản lý, sử dụng phần đất này để làm nuôi gia đình. Đến khoảng năm 1996 - 1997 thì cha mẹ có cắt cho chị Tô Thị Đ diện tích khoảng 15 đến 16 công (tầm cấy) giáp với đất đường nước có tranh chấp bây giờ. Cắt phần đất thuộc miếng láng nhỏ, còn một phần miếng láng nhỏ thì cha và mẹ tôi để lại cho Tô Văn D quản lý sử dụng (có đường thoát nước riêng) Trước khi bà Đ có yêu cầu và có tranh chấp thì đường nước này là của anh em sử dụng chung cho đến bây giờ. Còn việc bà Đ nói mẹ cụ Hồ Thị C2 chuyển nhượng cho bà Đ phần đường nước này thì ông không đồng ý vì nếu sang đường nước này thì không có đường để thoát nước cho phần đất của miếng đất lớn mà cụ T6 sử dụng trước đây và hiện tại anh em đang sử dụng bây giờ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Tô Thị N trình bày trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền là ông Võ Hải T1 trình bày:

Nguồn gốc đường nước này trước đây là của chung cha và mẹ bà là ông Tô Văn T6 và bà Hồ Thị C2 khai phá từ thời gian nào thì bà không biết và cha mẹ khai phá khoảng bao nhiêu đất thì bà không biết, nhưng bà thấy cha và mẹ bà sử dụng hai phần đất, một phần đất lớn và một phần đất nhỏ từ lâu. Phần đất nhỏ có đường thoát nước riêng và được chia cho bà Tô Thị Đ diện tích khoảng bao nhiêu công bà không biết và chia cho Tô Văn V1. Phần đất bà Tô Thị Đ được chia thì giáp ranh với đường nước có tranh chấp bây giờ.

Năm 1996 thì cha và mẹ chia ra cho bà diện tích là 21.800m2 (nhưng để cho ông Ngô Văn L đứng tên), Tô Văn G1 diện tích bao nhiêu không biết (sau này Tô Văn G1 chuyển nhượng lại cho Tô Văn D) còn lại thì cụ Tô Văn T6 quản lý và sử dụng. Sau này thì bà T quản lý sử dụng. Từ khi khi được chia đất thì cả ba người cùng quản lý và sử dụng phần đường nước này.

Trước khi bà Đ có yêu cầu và có tranh chấp thì đường nước này là của anh em sử dụng chung cho đến bây giờ. Còn việc bà Đ nói cụ Hồ Thị C2 chuyển nhượng cho bà Đ phần đường nước này thì bà không đồng ý vì nếu sang đường nước này thì không có đường để thoát nước cho phần đất mà cụ T6 sử dụng trước đây và hiện tại anh em đang sử dụng bây giờ.

Ngày 26/6/2018 bà Tô Thị N có yêu cầu phản tố yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 20/4/1996 cho bà Tô Thị Đ, diện tích là 5.215,7m2 đất tại thửa số 282, 283 tờ bản đồ số 03 được cấp theo quyết định số 234/QĐ-UB ngày 06/7/1995.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trịnh Văn T3 trình bày:

Ông thống nhất với lời trình bày của bà Tô Thị T. Nếu phần đất trên giải quyết cho bà Tô Thị Đ thì ông đồng ý cùng với các đồng bị đơn trả giá trị đất cho bà Tô Thị Đ theo quy định.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Phạm Tuyết H1 trình bày:

Chị thống nhất với lời trình bày của ông Tô Văn D về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đối với phần đất tranh chấp và chị cũng không yêu cầu gì.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân thị xã G trình bày:

Việc cấp giấy chứng nhận chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Tô Thị Đ tại thửa số 282 và 283 tờ bản đồ số 03 về trình tự cấp giấy chứng nhận là chưa phát hiện sai sót. Đối với việc kê khai đăng ký trong danh sách ghi 20.270m2 nhưng khi được cấp là 20.770m2 là do sai sót trong khâu kỹ thuật. Do đó, theo yêu cầu của bà N và ông D có yêu cầu Tòa án hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Tô Thị Đ có diện tích 5.217,5m2 tại thửa số 282 và 283, tờ bản đồ số 03 thì đề nghị Tòa án xử lý theo quy định pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh thị xã G trình bày:

Vào ngày 09/01/2019 bà Tô Thị Đ vay vốn tại Agribank chi nhánh thị xã G, phòng giao dịch phường 1 đối với số tiền 40.000.000 đồng theo hợp đồng số7202LAV201900213. Tài sản thế chấp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G852.489 do Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) huyện G3 cấp ngày 20/4/1996 diện tích là 20.770m2. Số tiền gốc tính đến ngày 30/10/2019 là 10.000.000 đồng và lãi là 170.466 đồng. Đối với phần đất tranh chấp giữa bà Đ và các bị đơn ông Ngô Văn L, ông Tô Văn D, bà Tô Thị T trong quá trình xét xử có xử lý tài sản làm thay đổi đến hiện trạng của tài sản thì đề nghị Tòa án yêu cầu bà Tô Thị Đ phải trả hết nợ gốc và lãi phát sinh đến ngày trả xong số tiền còn nợ.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2021/DS-ST ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu quyết định:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đ đòi các đồng bị đơn ông Ngô Văn L, bà Tô Thị T, ông Tô Văn D trả lại phần đất là đường nước diện tích theo đo đạc thực tế 433,5m2 đất tại thửa 281, tờ bản đồ số 03 do cụ Tô Văn T6 đứng tên trong sổ mục kê, đất tọa lạc tại ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu. Đất có vị trí và số đo như sau:

- Hướng Đông giáp giáp phần đất đường bê tông cạnh dài 21,39m - Hướng Tây giáp phần đất II cạnh dài 14,88m - Hướng Nam giáp Tô Thị Đ cạnh dài 34,45m - Hướng Bắc giáp Ngô Lệ H3 cạnh dài 21,74m.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tô Thị Đ về việc yêu cầu Ngô Văn L; ông Tô Văn D; bà Tô Thị T trả lại phần diện tích đất qua đo đạc thực tế là 5.215,7m2 đất tại thửa 282, 283, tờ bản đồ số 03 do bà Tô Thị Đ đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất có vị trí và số đo như sau:

- Hướng Đông giáp giáp phần đất I cạnh dài 14,88m - Hướng Tây giáp Tô Thị T cạnh dài 13,41m - Hướng Nam giáp Tô Thị Đ cạnh dài 351,33m - Hướng Bắc giáp Ngô Lệ H3 cạnh dài 295,66 + 49,56 + 6,0m.

3. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G 852489, đất tại thửa 282, 283 tờ bản đồ số 03 do Ủy ban nhân dân thị xã huyện G3 (nay là thị xã G) cấp cho bà Tô Thị Đ ngày 20/4/1996 đối với phần diện tích đất tranh chấp là 5.215,7m2 tọa lạc tại ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.

Các bên có nghĩa vụ đi kê khai đăng ký theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí sơ thẩm, chi phí tố tụng và thông báo về quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 22/12/2021, bà Tô Thị Đ kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu Ngô Văn L, ông Tô Văn D, bà Tô Thị T trả lại phần diện tích đất qua đo đạc thực tế là 5.215,7m2 đất tại thửa 282, 283, tờ bản đồ số 03 do bà Tô Thị Đ đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G 852489, đất tại thửa 282, 283 tờ bản đồ số 03 do Ủy ban nhân dân thị xã huyện G3 (nay là thị xã G) cấp cho bà Tô Thị Đ ngày 20/4/1996 đối với phần diện tích đất tranh chấp là 5.215,7m2 tọa lạc tại ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn bà Tô Thị Đ trình bày vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa toàn bộ bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đ về việc yêu cầu ông Ngô Văn L, ông Tô Văn D, bà Tô Thị T trả lại phần diện tích đất qua đo đạc thực tế là 5.215,7m2 đất tại thửa 282, 283, tờ bản đồ số 03 do bà Tô Thị Đ đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với lý do: Phần đường nước này có nguồn gốc là của cụ Tô Văn T6 và cụ Hồ Thị C2, là cha và mẹ của bà. Khi cha mẹ bà ly thân nhau và thỏa thuận phân chia tài sản là cụ C2 sẽ hưởng phần miếng đất nhỏ và đường nước còn cụ T6 thì hưởng miếng đất lớn. Như vậy, cụ T6 giao luôn cả đường nước duy nhất, mang tính chất quyết định đến việc canh tác phần đất láng lớn cho cụ C2. Sau đó, cụ C2 bán cho bà Đ ½ diện tích đất của miếng đất nhỏ được chia cùng với đường nước (hiện có tranh chấp) với giá 35 chỉ vàng 24k. Ngày 20/4/1996, bà Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với phần đất mà cụ C2 chuyển nhượng cho bà.

Bị đơn bà Tô Thị T thống nhất lời trình bày của bà Đ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà Đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh trình bày quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng. Các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định pháp luật.

Về nội dung:

Bản án sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu của bà Đ cho rằng đường nước có trước khi cấp giấy là chưa có chứng cứ xác thực về diện tích, mâu thuẫn với lời khai của bị đơn. Đồng thời, không có chứng cứ chứng minh mua đất của ông Tô Văn G1 bao nhiêu, có mua đường ống nước không, diện tích thực tế sử dụng là bao nhiêu, diện tích trước khi mở rộng đường nước là bao nhiêu, diện tích sau mở rộng đường ống nước là bao nhiêu. bà Đ được cấp giấy từ năm 1995, 1996 đến năm 2002, 2003 mới mở rộng đường ống nước, là sau khi cấp giấy, trước khi cấp giấy chỉ có 2m-2,5m nhưng bản án không đánh giá chứng cứ này.

Hơn nữa, theo lời cụ D (bút lục 363) cho rằng: cụ T6 “chừa ra 02 tầm để ngăn không cho nước mặn xâm nhập vào đất chị Đ”. Tại biên bản hòa giải ngày 02/01/2019 (bút lục 205) bà T có khai bị đơn có khai: “Đất này của chung cha mẹ, khi cha mẹ không hòa thận thì có sự chia đất, cha một miếng đất đầu trên, mẹ một miếng đất đầu dưới, khi ông D cưới vợ phải chia đất cho ông D thì lúc này chia đất cho ông D hơn 20 công, phần còn lại của mẹ tôi, sau đó mẹ tôi bán lại cho chị Đ. Khi bán tôi có chứng kiến. Đến khoảng mấy năm sau thì chị Đ có làm bằng khoản đất và mẹ tôi có chỉ ranh để là bằng khoáng. Tôi đồng ý trả lại giá trị đất cho chị Đ theo như định giá”. Phần cuối biên bản bà T đồng ý trả đất cho bà Đ và không có ý kiến gì khác.

Như vậy, cụ C2 có bán phần đất tranh chấp cho bà Đ, theo bà Đ đã mua giá 35 chỉ vàng 24k là thật. cụ C2 có chỉ ranh cho đoàn đo đạc. ông L, ông Gấm, bà T xổ nước làm ảnh hưởng đến việc nuôi tôm của bà Đ nên có thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của bà Đ là có cơ sở.

Tại biên bản ngày 15/02/2017 (bút lục số 09) bà N, ông D đều thừa nhận có tranh chấp thì đồng ý đo đất theo giấy mà bà Đ đã được công nhận. Theo bà T trình bày: “Tôi cũng là người trong gia đình, cũng là người chịu ảnh hưởng đường nước này thì chế hai cùng cực nhọc mà không hưởng công nào, mà mấy đứa được cha mẹ cho, thì chế hai sang nhượng lại của má, thì đường nước 3 công, tao một công, hai đứa đưa một công, trả tiền cho chế hai dưỡng già”.

Theo sơ đồ khu đất tranh chấp (bút lục số 07) thì chiều ngang mương nước hiện tại điểm M2M6= M3M5 = 13,50m. Như vậy, chiều ngang mương nước ba đầu chỉ có 2m-2,5m như ông D trình bày, đến năm 2002-2003 mới mở ra là 13,50m nên diện tích lên đến 5.215,7 m2 bà Đ đang đứng lên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Xét về tình, bà Đ không được ba mẹ cho đất, các em đều được cha mẹ cho đất, khi cụ T6 mở rộng mương nước để canh tác đất cho cụ T6 (cha ruột) và cho cả gia đình các em tăng gia sản xuất, bà Đ không tranh chấp điều này cũng không làm mất đi quyền sở hữu, sử dụng đất của bà Đ, và cũng phù hợp với giá trị đạo đức của con người.

Nhằm đánh giá chứng cứ, thu thập chứng cứ đầy đủ toàn diện, giải quyết khách quan, hợp lý, bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp chính đáng của đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét:

[1] Về tố tụng:

Bị đơn ông Ngô Văn L, ông Tô Văn D, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tô Thị N, cùng có người đại diện theo ủy quyền là ông Võ Hà T1, Ủy ban nhân dân thị xã G, tỉnh Bạc Liêu, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh thị xã G, đều có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Tô Văn G1 gồm bà Nguyễn Thị L2, ông Tô Hùng T2, ông Tô Văn H, ông Trịnh Văn T3, bà Phạm Tuyết H1 đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không rõ lý do.

Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Toà án tiến hành phiên toà phúc thẩm xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng trên.

[2] Về nội dung:

Nguyên đơn bà Tô Thị Đ trình bày bà nhận chuyển nhượng phần đường nước tranh chấp từ mẹ ruột là cụ Hồ Thị C2. Ngày 20/4/1996, bà được Uỷ ban nhân dân huyện G3 (nay là thị xã G) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích là 20.770m2, trong đó có phần đường nước tranh chấp. Nay bà yêu cầu phía bị đơn trả cho bà phần đất nêu trên.

Phía bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cho rằng phần đường nước này do cha mẹ ông bà cùng nhau khai phá. Sau khi ly thân, cụ Tô Văn T6 là người trực tiếp quản lý, sử dụng. Hiện tại, các đồng bị đơn đang sử dụng chung đường nước này.

Theo văn bản số: 149/NHNoGR-KHKD ngày 30/10/2019 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh thị xã G Bạc Liêu yêu cầu: “Trong quá trình xét xử nếu có xử lý tài sản làm thay đổi hiện trạng của tài sản (Cắt chuyển tên, tách thửa, giảm diện tích…) thì đề nghị Tòa án yêu cầu bà Tô Thị Đ phải trả hết nợ gốc + lãi phát sinh đến ngày trả dứt nợ (Gốc (+) cộng lãi tạm tính đến ngày 30/10/2019 là 10.170.466 đồng) tại Agribank thị xã G, Bạc Liêu – Phòng Giao dịch Phường I để rút tài sản về phục vụ cho vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.” (bút lục số 303) Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của bà Tô Thị Đ, yêu cầu phản tố của ông Tô Văn D và yêu cầu độc lập của bà Tô Thị N, tuyên xử: Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đ đối với yêu cầu đòi diện tích 433,5m2; Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đ đối với yêu cầu đòi diện tích 5.215,7m2; hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G 852489 cấp ngày 20/4/1996 cho bà Tô Thị Đ đối với diện tích đất 5.215,7m2.

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy rằng, diện tích đất tranh chấp 5.215,7m2 là một phần của thửa 282, 283 đã được Ủy ban nhân dân huyện G3 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G 852489 ngày 20/4/1996 cho bà Tô Thị Đ. Hiện nay, bà Đ đang thế chấp các thửa đất này cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh thị xã G. Đồng thời, Ngân hàng Nông nghiệp cũng có yêu cầu giải quyết quan hệ tín dụng trên trong trường hợp thay đổi hiện trạng tài sản. Việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G 852489 khi không xem xét đến yêu cầu của Ngân hàng Nông nghiệp là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng Nông Nghiệp.

Ngoài ra, khi Tòa án cấp sơ thẩm tuyên điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G 852489 đã không tiến hành đo vẽ Bản đồ hiện trạng vị trí - áp ranh, gây khó khăn cho việc kê khai đăng ký trong giai đoạn thi hành án.

Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bà Tô Thị Đ, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Do bản án sơ thẩm bị hủy về tố tụng nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét về nội dung của vụ án. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần tiến hành đo vẽ lại Bản đồ hiện trạng vị trí - áp ranh, khi có biến động về diện tích thì cần tuyên án kèm bản đồ.

[3] Về án phí dân sự:

[3.1] Án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí thủ tục khác sẽ được xác định khi giải quyết sơ thẩm lại vụ án.

[3.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Do Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án dân sự sơ thẩm nên bà Tô Thị Đ không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3, Điều 308 và khoản 2, Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

1/ Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Tô Thị Đ.

2/ Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2021/DS-ST ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa:

- Nguyên đơn: Bà Tô Thị Đ, sinh năm 1951; Địa chỉ: Ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.

- Đồng bị đơn:

1. Ông Ngô Văn L, sinh năm 1949;

2. Ông Tô Văn D, sinh năm 1971;

3. Bà Tô Thị T, sinh năm 1955;

Cùng địa chỉ: Ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.

Người đại diện theo ủy quyền của ông L và ông D: Anh Võ Hà T1, sinh năm 1991. Địa chỉ: Số 417A/1, P1, khu vực Y, phường L1, quận C, thành phố Cần Thơ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Tô Văn G1, sinh năm 1963 (đã chết);

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Tô Văn G1 gồm:

1.1 Bà Nguyễn Thị L2, sinh năm 1962;

1.2 Anh Tô Hùng T2, sinh năm 1983;

1.3 Anh Tô Văn H, sinh năm 1986;

Cùng địa chỉ: Ấp C1, xã L1, huyện Đ1, tỉnh Bạc Liêu 2. Ông Trịnh Văn T3, sinh năm 1954;

3. Bà Phạm Tuyết H1, sinh năm 1956;

4. Bà Tô Thị N, sinh năm 1964;

Cùng địa chỉ: Ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu Người đại diện theo ủy quyền của bà N: Anh Võ Hà T1, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Số 417A/1, P1, khu vực Y, phường L1, quận C, thành phố Cần Thơ.

5. Ủy ban nhân dân thị xã G, tỉnh Bạc Liêu 6. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh thị xã G.

Chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

3/ Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí tố tụng khác sẽ được xác định khi giải quyết sơ thẩm lại vụ án.

- Án phí dân sự phúc thẩm:

Bà Tô Thị Đ không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, hoàn lại cho bà Đ số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo Biên lai thu số 0000120 ngày 22/12/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 472/2022/DS-PT

Số hiệu:472/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về