Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 203/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 203/2024/DS-PT NGÀY 27/03/2024 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 27/3/224, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 370/2023/TLPT-DS ngày 20/10/2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 31/7/2023 của Toà án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 583/2023/QĐ-PT ngày 27/11/2023; thông báo mở lại phiên tòa số 25/2024/TB-TA ngày 17/01/2024; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Hoàng Tr C; sinh năm: 1957; vắng mặt tại phiên tòa.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Nguyễn T V, sinh năm: 1985; có mặt tại phiên tòa.

Ông C, chị V cùng địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội .

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Nguyễn T S - Văn phòng luật sư T - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

Địa chỉ liên hệ: A 808, tòa nhà M3+M4, 91 N, phường H, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.

2. Bị đơn: Ông Hoàng Tr H; sinh năm: 1935; vắng mặt tại phiên tòa.

Người đại diện theo ủy quyền của ông H: Anh Hoàng Tr Ng, sinh năm 1993; có mặt tại phiên tòa.

Ông H, anh Ng cùng địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Đỗ T H, sinh năm 1959; có đơn xin xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà H: Luật sư Nguyễn T S - Văn phòng luật sư T - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

3.2. Anh Nguyễn Ph Ph; sinh năm: 1979; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội; có đơn xin xét xử vắng mặt.

3.3. Bà Nguyễn T C; sinh năm: 1966; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

4. Người kháng cáo: Ông Hoàng Tr H – Là Bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

Theo đơn khởi kiện và các bản khai tại Tòa án, nguyên đơn là ông Hoàng Tr C và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Về nguồn gốc diện tích 143m2 đất thuộc thửa đất số 86, tờ bản đồ 01 (Được xác định là thửa đất 2 + 11, tờ bản đồ số 23 theo bản đồ tổng thể tháng 4/2021) nay Uỷ ban nhân dân xã H quy chủ đứng tên Hoàng Tr C là thửa số 71B, tờ bản đồ 01, diện tích nguyên thủy 94m2 (Thực tế 143m2), địa chỉ thửa đất tại thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội như sau:

Năm 1978 ông kết hôn với bà Đỗ T H, đến năm 1979 thì nhập ngũ đóng quân tại huyện Sóc S thuộc Sư đoàn 312. Năm 1983 ông xuất ngũ về địa phương sống cùng vợ và bố đẻ là ông Hoàng Trung Du. Khi ông xuất ngũ về địa phương, vợ chồng ông mua đất để ở riêng. Năm 1986 vợ chồng ông được Hợp tác xã H bán cho mảnh đất giãn dân có địa chỉ tại Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, thời điểm đó mảnh đất khoảng 04 thước (96m2) bởi lúc đó bà Đỗ T H đang làm xã viên Hợp tác xã H. Vợ chồng đã nộp tiền cho Hợp tác xã H. Trong quá trình sử dụng, gia đình ông cải tạo, cơi nới thêm ra bờ đê 46 khoảng 70m2, cắm hàng rào tre bao quanh để quản lý toàn bộ diện tích đất trồng khoai nước và rau muống.

Năm 2004, vợ chồng ông tặng cho em trai là Hoàng Trung Th và em dâu Nguyễn Thị H 22,5m2, sau này ông Hoàng Trung Th lại đổi diện tích đất đó cho ông Nguyễn Đăng Thuật để làm lối đi nên ngày 11/4/2013 có xảy ra tranh chấp đường đi giữa các bên, việc vợ chồng ông cho ông Th đất thì không đòi lại nữa nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Ngày 12/3/2011, gia đình ông xây toàn bộ tường bao quanh thửa đất thực tế còn khoảng 143m2. Ông đã xây dựng nhà tạm trên ½ diện tích còn lại ½ diện thì trồng cây, mỗi bên đều làm cửa ra vào cho thuận tiện việc vào vườn và vào nhà xây tạm. Do gia đình ông ở chỗ khác không thường xuyên đến đó để canh tác nên chú ruột ông là ông Hoàng Tr H nhà ở gần đó đặt vấn đề mượn ½ diện tích đất trống để trồng rau, ông đồng ý và đưa chìa khóa để ông H ra vào vườn cho thuận tiện. Nhưng do tuổi cao không có khả năng lao động nên ông H giao cho con dâu là bà Nguyễn T C canh tác.

Năm 2016, ông có cho anh Nguyễn Ph Ph trú tại thôn H, xã H thuê ½ diện tích đất trên xây nhà tạm để làm xưởng mộc (Anh Ph xây cao tường khoảng 07m, gia công thêm khung thép và lợp mái tôn). Do nhà ông ở chỗ khác không thường xuyên đến thửa đất, đồng thời bà C thường xuyên sang vườn canh tác nên anh Ph tưởng diện tích đất trồng rau là của bà C nên anh Ph thuê lại của bà C để mở rộng thêm xưởng mộc.

Khoảng cuối năm 2017 đầu năm 2018 gia đình ông biết được việc bà C tự ý cho anh Ph thuê ½ diện tích đất mà gia đình ông cho mượn để anh Ph mở rộng xưởng sản xuất, lúc này thì anh Ph đã xây thêm tường cao 0,7m, hàn vì kèo sắt, lợp mái tôn nên anh Ph có xin ông, đồng thời cũng vì nể chú ruột nên gia đình ông để thêm một thời gian sau đó gia đình đã yêu cầu anh Ph tháo dỡ, khóa cửa phần diện tích đất trống. Tuy nhiên, ngày 23/7/2022 anh Hoàng Tr Ng là cháu nội của ông H đã tự ý mang máy cắt đến cắt khóa cửa của phần đất mà ông cho mượn để trồng rau, đồng thời thuê thợ xây dựng nhà trái phép trên đất. Gia đình ông đã trình báo với cơ quan Công an xã H về việc anh Ng có hành vi xâm phạm chỗ ở người khác và hủy hoại tài sản. Sự việc xảy ra có anh Tuấn - Phó công an xã H và các anh công an xã đến can thiệp và hướng dẫn ông làm đơn gửi đến Ủy ban nhân dân xã H.

Đến nay ông H vẫn cho con cháu khóa cửa để ngăn cản gia đình ông vào thửa đất nên ông đã làm đơn gửi chính quyền xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội hòa giải nhưng không thành, bởi gia đình ông Hoàng Tr H cho rằng đây là đất thừa tự của ông Hoàng Trung C để lại nhưng khi kê khai lại kê tên Hoàng Tr C nên yêu cầu gia đình ông phải cho ông H ½ diện tích đất, nên ông không đồng ý.

Ngày 28/4/2023, Tòa án tiến hành hòa giải thì phía gia đình ông H lại cho rằng nguồn gốc thửa đất số 86, tờ bản đồ số 01, địa chỉ tại thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội có nguồn gốc là của ông Hoàng Trung C (Ông C chết năm 1940) vợ ông C chết năm 1947. Khi ông C còn sống thì đã cho ông Hoàng Tr H nhưng không có giấy tờ gì, thế nhưng ông H cho rằng năm 1950 cả gia tộc họp bầu cho ông H được ăn thờ tự nhưng không có giấy tờ tài liệu chứng minh cho yêu cầu phản tố của mình nên gia đình ông không chấp nhận.

Ông khẳng định diện tích đất trên có nguồn gốc do vợ chồng ông mua của Hợp tác xã H, diện tích đất này từ trước năm 1986 là đất nông nghiệp chứ không phải đất thổ cư của ông cha để lại. Việc Hợp tác xã H bán đất có thu tiền, ngoài gia đình ông thì còn nhiều gia đình khác hiện đang quản lý sử dụng và xây nhà ở kiên cố, một số nhà đó đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2021, Nhà nước yêu cầu các hộ kê khai đăng ký để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gia đình ông đã kê khai và được Uỷ ban nhân dân xã H thuê Công ty đo đạc xác định chủ sử dụng đất là Hoàng Tr C diện tích thực tế sử dụng 143m2, thửa đất số 86, tờ bản đồ 01 (Được xác định là thửa đất 2 + 11, tờ bản đồ số 23, tờ bản đồ dự án tổng thể) có tứ cận giáp với nhà ông Nguyễn Đăng Th1, ông Đỗ Hữu P, ông Nguyễn Văn S và mặt tiền giáp đường bê tông chạy dọc đê 46. Việc đo đạc theo yêu cầu của Uỷ ban nhân dân xã H và xác nhận của các hộ giáp danh có sự chứng kiến Trưởng thôn là bà Hoàng Thị K.

Kể từ khi gia đình ông nhận đất quản lý sử dụng, không có tranh chấp mốc giới với các hộ liền kề đến, năm 2011 gia đình ông đã xây dựng toàn bộ tường bao kiên cố, làm nhà tạm trên diện tích đất cũng không xảy ra tranh chấp với hộ liền kề và nhà ông Hoàng Tr H ở ngay gần đó cũng không có phản đối gì. Sự việc chỉ xảy tranh chấp khi gia đình cho ông H mượn đất trồng rau, sau đó bà C cho anh Ph thuê nên gia đình ông không cho mượn nữa. Việc ông Hoàng Tr H (Là chú ruột của ông) cho rằng đất này là của ông cha để lại là không đúng, bởi quá trình hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã H, ông yêu cầu ông H xuất trình giấy tờ nhà đất của ông cha để lại cho thửa đất nêu trên nhưng ông H không cung cấp được. Mặt khác, cụ nội ông là cụ Hoàng Trung Hi đẻ ra ông Hoàng Trung Du và ông Hoàng Tr H (Ông Du là anh trai ông H), việc ông C cho đất thừa kế như thế nào, thửa đất ở đâu thì ông không biết.

Căn cứ vào quá trình sử dụng đất của gia đình ông là ổn định không tranh chấp với các hộ liền kề, đã xây dựng công trình nhà ở, sử dụng đúng mục đích và không nằm trong diện quy hoạch thu hồi đất, đã đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã H, có bản đồ địa chính quy chủ sử dụng đất là Hoàng Tr C nên gia đình ông đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100, Điều 101 của Luật Đất đai năm 2013 và Điều 18, Điều 20 và Điều 21 của Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai.

Vì vậy, ông khởi kiện đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết như sau:

- Yêu cầu Tòa án xác định và công nhận toàn bộ tài sản xây dựng trên diện tích 143m2 đất thuộc thửa đất số 86, tờ bản đồ 01 (Được xác định là thửa đất 2 + 11, tờ bản đồ số 23, tờ bản đồ dự án tổng thể) nay Uỷ ban nhân dân xã H quy chủ đứng tên Hoàng Tr C là thửa số 71B, tờ bản đồ 01, diện tích nguyên thủy 94m2 (Thực tế 143m2), địa chỉ thửa đất tại thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội là tài sản chung của vợ chồng ông.

- Bác yêu cầu của bị đơn phản tố cho rằng diện tích 143m2 đất thuộc thửa đất số 86, tờ bản đồ 01 là đất của ông Hoàng Trung C (Chết năm 1940) và vợ chết năm 1947 khi còn sống đó giao lại cho ông Hoàng Tr H bởi ông H không có bất kỳ giấy tờ chứng minh nguồn gốc sử dụng đất nêu trên.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn trình bày như sau:

Thửa đất số 86, tờ bản đồ số 01; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội có nguồn gốc là của ông Hoàng Trung C. Ông Hoàng Trung C khi còn sống đã cho ông Hoàng Tr H, việc cho đất không có văn bản gì, chỉ cho bằng miệng. Nội dung việc ông C cho đất ông H là để ông H trông nom cúng bái thờ phụng các cụ. Ông Hoàng Trung C chết năm 1940, vợ ông C chết năm 1947. Năm 1950, cả gia tộc bầu cho ông Hoàng Tr H ăn đất thờ tự của chú ruột là ông Hoàng Trung C. Từ trước năm 1970, ông H đã trồng tre ở đó. Đến năm 1980, ông H đi lên Ba Vì có giao lại cho ông Hoàng Trung Du trông nom. Từ năm 1986, bà Nguyễn Thị Thạch, bà Nguyễn T C con dâu ông H có sử dụng để cấy rau khoai nước để nuôi lợn. Đến năm 2004, ông H từ trên Ba Vì về nhà thì mới hỏi lại ông Du để lấy lại đất. Sau đó gia tộc họp và tất cả những người liên quan đều ký văn bản đồng ý trả lại cho ông H toàn bộ diện tích đất nêu trên. Sau khi ký xong biên bản, ông C lại xin ông H một nửa diện tích thửa đất trên.

Đến năm 2010, hai gia đình nhà ông H và nhà ông C có ra xây dựng công trình mỗi người sử dụng một nửa thửa đất trên. Sau đó, ông H và ông C có nhất trí mỗi người sử dụng một nửa thửa đất trên, việc này được ghi nhận tại Biên bản hòa giải tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội năm 2013. Năm 2017, nhà ông H cho anh Nguyễn Ph Ph thuê phần đất nhà ông H quản lý sử dụng trên thửa đất đó khoảng 70m2 với giá 5.000.000 đồng/1năm. Đến đầu tháng 7/2022, gia đình ông không cho ông Phóng thuê thửa đất trên nữa.

Trong quá trình sử dụng đất, ông C đã có nhiều hành vi cản trở, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của ông H. Do vậy ông không đồng ý cho ông C tiếp tục sử dụng đất. Vì vậy đề nghị Tòa án công nhận thửa đất số 86, tờ bản đồ số 01; địa chỉ: Thôn H, xã H, Thành phố Hà Nội thuộc quyền sử dụng của ông Hoàng Tr H, yêu cầu ông Hoàng Tr C và bà Đỗ T H trả lại một nửa diện tích đất của thửa đất trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Bà Đỗ T H trình bày thống nhất với ý kiến trình bày của ông Hoàng Tr C.

Anh Nguyễn Ph Ph trình bày: Ngày 26/2/2016, anh Ph có ký hợp đồng thuê đất làm xưởng mộc với ông Hoàng Tr C, diện tích đất thuê khoảng 60-70m2, thời gian 5 năm với giá 5.000.000 đồng/1năm, thanh toán là 01 năm/01 lần có tường bao quanh diện tích đất khoảng 140m2, diện tích đất anh thuê có mái nhà tạm nên anh đã xây cao thêm 0,7m và gia công lại toàn bộ phận mái cho chắc chắn.

Đầu năm 2017, anh Ph thấy bà Nguyễn T C thường sang đất cạnh xưởng trồng rau nên anh Ph tưởng diện tích đất còn lại của bà C nên anh Phòng đã thuê phận diện tích còn lại thời gian 5 năm với giá 5.000.000 đồng/1năm, anh xây tường cao thêm 0,7m và làm khung thép lợp tôn. Sau khi thuê ông C cho anh Biết diện tích đất này là của gia đình ông C mua chia làm 02 phần một phần cho tôi thuê một phần cho ông H, bà C trồng rau nên anh Ph có xin cho anh Ph thuê thêm thời gian để sử dụng vì anh Ph đã trả tiền cho bà C và làm kèo sắt, lợp mái đồng thời anh Ph cam kết khi nào ông C cần anh Ph tháo dỡ để trả lại đất cho ông C.

Anh Ph thuê đến năm 2022 ông C có nhu cầu lấy lại ½ diện tích đất mà anh Ph thuê của bà Trung thì anh Ph đã tháo dỡ toàn bộ phận mái tôn, kèo sắt trả lại hiện trạng chìa khóa cửa cho ông C.

Anh Ph khẳng định đã chấm dứt họp đồng thuê đất với bà C trả lại đất cho ông C, anh Ph vẫn thuê đất của ông C làm xưởng mộc, anh Ph không liên quan gì đến việc tranh chấp đất giữa gia đình ông Hoàng Tr C và anh đề nghị được vắng mặt tất cả các buổi làm việc, hòa giải tại Tòa án và phiên tòa xét xử.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội đã xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.

Xác nhận ông Hoàng Tr C và bà Đỗ T H có quyền sử dụng đất hợp pháp đối với thửa đất số 86, tờ bản đồ 01 (Theo sổ mục kê năm 1987 là thửa đất 71B, tờ bản đồ 01) nay xác định là thửa đất số 2 + 11, tờ bản đồ số 23, bản đồ dự án tổng thể; địa chỉ thửa đất: Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội.

Buộc anh Nguyễn Ph Ph phải tháo dỡ tài sản ra khỏi thửa đất trên để trả lại cho ông Hoàng Tr C và bà Đỗ T H diện tích đất đã cho thuê.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không đồng ý với bản án dân sự sơ thẩm nêu trên, ngày 10/8/2023 ông Hoàng Tr C (bị đơn) nộp đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết:

không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu ông C, bà H trả lại ½ diện tích đất của thửa đất số 86, tờ bản đồ số 1 mà ông H đã cho mượn, yêu cầu Tòa án công nhận toàn bộ diện tích thửa đất số 86, tờ bản đồ số 01 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các đương sự lập biên bản thỏa thuận hòa giải tại Tòa Án với nội dung như sau: “...Chúng tôi là: Nguyễn T V là đại diện ủy quyền của nguyên đơn là ông Hoàng Tr C cùng trú tại thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội.

Và chúng tôi là Hoàng Chung Nghi và Nguyễn T C là đại diện cho bị đơn Hoàng Tr H đều trú tại thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội.

Chúng tôi là đương sự trong vụ án Tranh chấp quyền sử dụng đất do Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số 370/2023/TLPT- DS ngày 20/10/2023.

Nay chúng tôi thống nhất thỏa thuận như sau:

Về diện tích chúng tôi tranh chấp đất là 144,8m2.

Nay chúng tôi thống nhất thỏa thuận Nguyên đơn vợ chồng ông Hoàng Tr C và vợ là bà Đỗ T H được sử dụng 96m2. Phía bị đơn ông Hoàng Tr H (do anh Hoàng Tr Ng đại diện) được sử dụng 48,8m2. Biên bản này do chúng tôi tự thỏa thuận, yêu cầu Tòa án chấp nhận việc giải thành tại cấp phúc thẩm.

Ghi chú: Tài sản trên đất của bên nào thì hưởng bên đó.

Cụ thể là diện tích trên 96m2 của Nguyên đơn thì tài sản trên đất Nguyên đơn hưởng.

Tài sản trên đất phía Bị đơn (tường bao) thì phía bị đơn hưởng trên diện tích đất 48,8m2...” Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn T V xác nhận giữa bà và anh Ng, bà C có lập biên bản thỏa thuận với nội dung như trên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét ghi nhận sự thỏa thuận giữa bà và anh Hoàng Tr Ng về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa hai gia đình. Chị V cũng trình bày hiện nay anh Ph vẫn ký hợp đồng thuê đất với ông C nên đối với phần nhà xưởng do anh Nguyễn Ph Ph xây dựng và thuê nằm trên phần đất chia cho ông C thì gia đình ông C sẽ tự giải quyết với anh Nguyễn Ph Ph.

Anh Hoàng Tr Ng thống nhất với ý kiến trình bày của bà Nguyễn T V. Bà Nguyễn T C thống nhất với ý kiến trình bày của bà Nguyễn T V.

Người bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Luật sư S trình bày thống nhất với nội dung biên bản thỏa thuận giữa bà Vui và anh Ng đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa ngày hôm nay.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên sửa bản án dân sự sơ thẩm 14/2023/DS - ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ theo hướng chấp nhận sự thỏa thuận của đương sự tại phiên tòa ngày hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án trên cơ sở thẩm tra, xem xét tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời khai của các đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử thấy:

[1]. Về tố tụng:

1.1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là quan hệ tranh chấp “Quyền sử dụng đất” là có căn cứ. Căn cứ theo quy định tại Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội thụ lý giải quyết vụ án là có căn cứ.

1.2. Về việc vắng mặt của đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Ph Ph, bà Đỗ T H vắng mặt căn cứ các quy định Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án cấp sơ thẩm hành xét xử vắng mặt anh Ph, bà H là có căn cứ.

Tại phiên tòa phúc thẩm một số đương sự vắng mặt có đơn xét xử vắng mặt; căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những đương sự này.

[2]. Về hình thức:

Ngày 31/7/2023 Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ xét xử sơ thẩm và tuyên án. Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 10/8/2023 bị đơn ông Hoàng Tr H nộp đơn kháng cáo là trong thời hạn quy định tại Khoản 1 điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự (Ông H là người cao tuổi được miễn nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm) nên về hình thức là hợp lệ, vụ án được xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm

[3] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Hoàng Tr H.

3.1. Về nguồn gốc thửa đất: Thửa đất các đương sự trong vụ án tranh chấp là thửa đất số 86, tờ bản đồ 01 (Theo sổ mục kê năm 1987 là thửa đất 71B, tờ bản đồ 01) nay xác định là thửa đất số 2 + 11, tờ bản đồ số 23, bản đồ dự án tổng thể; địa chỉ thửa đất: Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội.

Trong giai đoạn trong giai đoạn từ năm 1940 đến năm 1986: Về nguồn gốc thửa đất này các đương sự đều không xuất trình được các tài liệu chứng cứ chứng minh người có quyền sử dụng, đứng tên thửa đất trên.

Trong giai đoạn từ năm 1987 đến nay: Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xác minh và yêu cầu Ủy ban nhân dân xã H cung cấp về nguồn gốc thửa đất. Tại công văn số 73/UBND về việc cung cấp nguồn gốc sử dụng đất ông Hoàng Tr C ngày 22/6/2023 của UBND xã H thể hiện: “…Căn cứ theo tờ bản đồ địa chính và sổ mục kê năm 1987, thửa đất số 71B, tờ bản đồ số 01. diện tích 94,0m2, nguồn gốc đất ghi trong sổ mục kê đứng tên Hoàng Tr C, Mục đích sử dụng đất LNK (Cây lâu năm).

Đến năm 1996 thiết lập, đo đạc lại tờ bản đồ địa chính thì thửa đất được lấy lại số hiệu tại thửa đất số 86, tờ bản đồ số 01, diện tích 140,0 m2. Diện tích tăng so với tờ bản đồ chứ không có sổ mục kê được ghi chép nguồn gốc và được lưu trữ.

Tiếp đến năm 2017-2018 đo đạc tờ bản đồ tổng thể địa chính và được Công ty cổ phần tư vấn khảo sát và đo đạc địa chính Anh Quân đo năm 2023 được xác định diện tích là 143m2.

Về vấn đề này UBND xã có ý kiến như sau:

Trên cơ sở hồ sơ lưu trữ tại UBND xã chỉ căn cứ sổ mục kê 1987, tại thửa đất số 71B, tờ bản đồ số 01, diện tích 94,0m2, phù hợp với quy định tại điều 100, 101 Luật đất đai năm 2013…”.

Ngày 22/01/2024, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành xác minh tại UBND xã H thể diện: Diện tích thửa đất số 86, tờ bản đồ số 1, theo tờ bản đồ và sổ mục kê năm 1987 có diện tích 94m2, theo tờ bản đồ năm 1996 (không có sổ mục kê) có diện tích 140m2, diện tích tăng thêm so với tờ bản đồ năm 1987 là do gia đình sử dụng lấn chiếm ra diện tích đất chưa sử dụng. Hiện nay thửa đất không có tranh chấp ranh giới với các hộ gia đình liền kề, toàn bộ diện tích đất trên đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần diện tích đất thừa so với tờ bản đồ và sổ mục kê năm 1987 thì phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

3.2. Xét quá trình sử dụng thửa đất: Các đương sự đều không xuất trình được tài liệu chứng minh việc mình liên tục canh tác trên toàn bộ thửa đất trên từ năm 1940 đến năm 1986.

Về việc phía bị đơn cho rằng trong khoảng thời gian kể từ năm 1980 đến năm 2004, ông H đi lên Ba Vì không trực tiếp canh tác tại mảnh đất trên. Đến năm 2004, ông H từ Ba Vì trở về hỏi về việc lấy lại đất, nhưng cũng không có chứng cứ cụ thể có giá trị để chứng minh cho lời trình bày này của bị đơn.

3.3. Về diện tích thửa đất: Theo sổ mục kê năm 1987 thì thửa đất số 71B, tờ bản đồ số 01 có diện tích 94,0m2. Đến năm 1996 thiết lập, đo đạc lại tờ bản đồ địa chính thì thửa đất được lấy lại số hiệu tại thửa số 86, tờ bản đồ số 01 diện tích 140m2. Kết quả đo đạc năm 2023 của Công ty cổ phần tư vấn khảo sát và đo đạc địa chính Anh Quân thì thể hiện diện tích thửa đất trên là 143m2. Quá trình giải quyết vụ án qua các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả xem xét thẩm định ngày 20/3/2024 thể hiện diện tích đất đo thực tế là 144,8m2 đã được xây tường bao quanh, không có tranh chấp với các hộ liền kề và thửa đất nêu trên chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu.

Tại phiên tòa ngày hôm nay các đương sự trình bày nguyên đơn ông Hoàng Tr C và bị đơn ông Hoàng Tr H đã thống nhất thỏa thuận được với nhau về việc phân chia diện tích đất mà hai gia đình đang có tranh chấp có diện tích là 144,8m2 cụ thể: Ông Hoàng Tr C và vợ là bà Đỗ T H được quản lý sử dụng diện tích 96m2; ông Hoàng Tr H được quản lý sử dụng 48,8m2; đối với tài sản trên đất của ai thì người đó có quyền sử dụng định đoạt.

Đối với phần nhà xưởng do anh Nguyễn Ph Ph xây dựng và thuê nằm trên phần đất chia cho ông C thì gia đình ông C sẽ tự giải quyết với anh Nguyễn Ph Ph.

Việc thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện phù hợp với đạo đức xã hội và không trái với quy định của pháp luật.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Áp dụng Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 sửa bản án sơ thẩm số: 14/2023/DS-ST ngày 31/7/2023 theo hướng công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

[4]. Về án phí:

4. 1. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông H, ông C là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

4.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 147; Điều 184; Điều 300 và Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 203 của Luật đất đai.

- Các Điều 164, Điều 166, Điều 169 của Bộ luật dân sự.

- Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Xử:

1. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 31/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội và quyết định như sau:

Ghi nhận sự tự nguyện của của đương sự về việc phân chia quyền quản lý sử dụng diện tích 144,8m2 tại thửa đất số 86, tờ bản đồ 01 (Theo sổ mục kê năm 1987 là thửa đất 71B, tờ bản đồ 01) nay xác định là thửa đất số 2 + 11, tờ bản đồ số 23, bản đồ dự án tổng thể; địa chỉ thửa đất: Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội.

Xác nhận ông Hoàng Tr C và bà Đỗ T H được quyền quản lý, sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích 96m2 tại thửa đất số 86, tờ bản đồ 01 (Theo sổ mục kê năm 1987 là thửa đất 71B, tờ bản đồ 01) nay xác định là thửa đất số 2 + 11, tờ bản đồ số 23, bản đồ dự án tổng thể; địa chỉ thửa đất: Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội. Vị trí và mốc giới của thửa đất được xác định tại các điểm 1,2,5,6 có sơ đồ kèm theo bản án.

Xác nhận ông Hoàng Tr H được quyền quản lý, sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích 48,8m2 tại thửa đất số 86, tờ bản đồ 01 (Theo sổ mục kê năm 1987 là thửa đất 71B, tờ bản đồ 01) nay xác định là thửa đất số 2 + 11, tờ bản đồ số 23, bản đồ dự án tổng thể; địa chỉ thửa đất: Thôn H, xã H, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội. Vị trí và mốc giới của thửa đất được xác định tại các điểm 2,3,4,5 có sơ đồ kèm theo bản án.

Các tài sản nằm trên phần đất phân chia cho ai thì người đó được quyền sử dụng định đoạt.

Đối với hợp đồng thuê đất và các công trình xây dựng của anh Ph sẽ được ông C, bà H tự giải quyết với anh Ph.

Ông Hoàng Tr C cùng vợ là bà Đỗ T H và ông Hoàng Tr H có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký kê khai quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đã được phân chia theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí:

2.1. Về án phí dân sự sơ thẩm: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Hoàng Tr H và ông Hoàng Tr C.

2.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Hoàng Tr H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 203/2024/DS-PT

Số hiệu:203/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:27/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về