Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 198/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 198/2022/DS-PT NGÀY 27/05/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2022/TLPT-DS ngày 14 tháng 02 năm 2022, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, Do bản án dân sự sơ thẩm số: 84/2021/DS-ST ngày 14 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 124/2022/QĐ-PT ngày 08 tháng 4 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị R, sinh năm 1966; Địa chỉ: Số, ấp Bình H, xã Bình T, huyện Lấp V, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn Lê Thị R: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1973; Là người đại diện theo ủy quyền, theo văn bản ủy quyền ngày 22/4/2022.

Địa chỉ: Số, ấp Vĩnh P, xã Bình T, huyện Lấp V, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn: Ông Lê Văn X, sinh năm 1941.

Địa chỉ: Số, ấp Bình H, xã Bình T, huyện Lấp V, tỉnh Đồng Tháp.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1954;

3.2. Anh Lê Văn M, sinh năm 1985.

Cùng địa chỉ: Số, ấp Bình H, xã Bình T, huyện Lấp V, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện hợp pháp của ông X, bà T, anh M: Chị Nguyễn Thị Yến N, sinh năm 1985; Là người đại diện theo ủy quyền, theo văn bản ủy quyền ngày 29/12/2021;

Địa chỉ: Số, ấp Bình T, xã Bình Thạnh T, huyện Lấp V, tỉnh Đồng Tháp.

* Người kháng cáo: Ông Lê Văn X là bị đơn. Bà Nguyễn Thị T, anh Lê Văn M là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Anh Đ, chị N có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn bà Lê Thị R và trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị R là anh Nguyễn Văn Đ trình bày:

Nguồn gốc đất là của cụ ông Lê Văn R1 và cụ bà Nguyễn Thị B (cha mẹ ruột của bà R và ông X) cho bà R. Bà R sử dụng đất từ năm 1982 đến khoảng 2014, thì cụ B là mẹ ruột của bà R hỏi bà R mượn phần đất này để cho ông X canh tác sinh sống, khi nào cụ B chết thì ông X trả đất lại cho bà R, nên bà R đồng ý cho ông X mượn đất để sử dụng (việc cho mượn đất chỉ thỏa thuận miệng, không có làm thành văn bản).

Năm 1991, bà R kê khai đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện Thạnh H (nay là huyện Lấp V) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22/10/1991 diện tích 1.000m2 , thửa đất số 1309, tờ bản đồ số 6, loại đất lúa, đất tại ấp Bình Hòa, xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Do cuộc sống khó khăn, nên gia đình bà R đi làm thuê ở nơi khác.

Năm 2017 cụ B chết, bà R trở về quê sinh sống và gặp ông X để lấy lại đất sử dụng, thì phát hiện ông X đã tự ý đào ao nuôi cá, lên bờ trồng cây và cất 01 căn nhà tạm (trại), để ở mà không thông qua và chưa được sự đồng ý của bà R.

Cụ thể ông X đã đào ao nuôi cá, lên bờ trồng cây gồm: 06 cây dừa 01 năm tuổi, 01 cây bưởi 03 năm tuổi, 03 cây xoài 04 năm tuổi, 54 cây mít 04 năm tuổi cùng 01 căn nhà tạm ngang 04m, dài 04m, khung gỗ tạp, vách tol thiếc, mái lợp tol thiếc, sàn gỗ tạp xây dựng vào năm 2018. Phía bà R yêu cầu ông X lấp ao, ban bờ trả lại nguyên hiện trạng ban đầu cho bà R trồng lúa, nhưng ông X không đồng ý. Ông X yêu cầu bà R phải trả cho ông X 50.000.000 đồng thì mới trả lại đất. Bà R không đồng ý, mà đồng ý cho ông X diện tích là 200m2, nhưng ông X không đồng ý, nên phát sinh tranh chấp tại Tòa án.

Nay bà R yêu cầu hộ ông Lê Văn X trả lại cho bà R toàn bộ thửa đất số 1309, tờ bản đồ số 6, diện tích theo đo đạc thực tế là 740m2, đồng thời yêu cầu hộ ông Lê Văn X phải ban bờ, lấp ao, di dời cá nuôi, di dời cây trồng, căn nhà tạm ra khỏi đất tranh chấp để trả lại đất cho bà R.

Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà R, thì bà R yêu cầu được sở hữu, sử dụng toàn bộ cây trồng có trên đất và 01 căn nhà tạm do ông X cất vào năm 2018. Bà R đồng ý trả giá trị cây trồng và căn nhà tạm cho ông X số tiền là 25.493.722 đồng theo biên bản định giá tài sản ngày 29/10/2020. Đồng thời bà R thống nhất trả tiền cho ông X tiền công đào ao, lên bờ là 5.000.000 đồng. Tổng cộng bà R đồng ý trả giá trị bằng tiền cho hộ ông X là 30.493.000 đồng. Anh Đ thống nhất kết quả đo đạc ngày 01/9/2020, giá trị đất, cây trồng, giá trị căn nhà tạm theo kết quả định giá tài sản ngày 29/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Lấp Vò.

*Bị đơn ông Lê Văn X, bà Nguyễn Thị T và anh Lê Văn M, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của ông X, bà T, anh M là chị Nguyễn Thị Yến N trình bày:

Nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ ông Lê Văn R và cụ bà Nguyễn Thị B là cha mẹ ruột của ông X và bà R. Cụ Rừng và cụ B sử dụng đến năm 1975, thì để lại cho ông X tiếp tục sử dụng đất. Do đất trồng lúa không có hiệu quả kinh tế, nên ông X đã lên bờ trồng cây và đào ao nuôi cá. Hộ ông X sử dụng đất này liên tục từ năm 1975 đến nay, hàng năm ông X đóng thuế cho nhà nước đầy đủ. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân thiếu hiểu biết, nên ông X không đi đăng ký kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cũng như việc bà Rảnh đi đăng ký kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này, thì ông X không biết.

Nay hộ ông X, bà T, anh M không đồng ý trả đất diện tích 740m2 theo yêu cầu của bà R. Trong quá trình tố tụng, hộ ông X, bà T, anh M đồng ý trả giá trị đất cho bà R đối với diện tích là 740m2 theo kết quả định giá tài sản ngày 29/10/2020. Chị N thống nhất kết quả đo đạc ngày 01/9/2020, giá trị đất, giá trị cây trồng, giá trị căn nhà tạm theo kết quả định giá tài sản ngày 29/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Lấp. Tại phiên tòa, chị N trình bày hộ ông X, bà T, anh M không đồng ý trả giá trị đất cho bà R.

Tại quyết định bản án dân sự sơ thẩm số: 84/2021/DS-ST ngày 14 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò đã tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của của bà Lê Thị R.

2. Buộc hộ ông Lê Văn X, bà Nguyễn Thị T, anh Lê Văn M có nghĩa vụ trả lại cho bà Lê Thị R diện tích là 740m2 thuộc thửa đất số 1309, tờ bản đồ số 6 (theo bản đồ địa chính chính quy thuộc thửa đất số 61, tờ bản đồ số 55) do bà Lê Thị R đứng tên giấy quyền sử dụng đất (Theo sơ đồ đo đạc ngày 29/9/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò được tính từ mốc M1 đến M2 đến M3 đến M4 đến M5 về M1); Buộc hộ ông X, bà T, anh M có nghĩa vụ di dời toàn bộ cá nuôi có trong ao ra khỏi đất tranh chấp để trả đất cho bà R.

(Kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 01/9/2020 và sơ đồ đo đạc ngày 29/9/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò).

3. Bà Lê Thị R được quyền sở hữu và sử dụng gồm: 06 cây dừa, 01 cây bưởi, 03 cây xoài, 54 cây mít cùng với 01 căn trại sàn gỗ tạp, khung gỗ tạp, vách tol thiếc, mái lợp tol thiếc, sàn gỗ tạp diện tích ngang 04m, dài 04m nằm trên diện tích là 740m2 thuộc thửa đất số 1309, tờ bản đồ số 6 (theo bản đồ địa chính chính quy thuộc thửa đất số 61, tờ bản đồ số 55).

4. Chấp nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị R có nghĩa vụ trả cho hộ ông Lê Văn X, bà Nguyễn Thị T, anh Lê Văn M giá trị cây trồng, giá trị căn trại, tiền công đào ao, lên bờ tổng số tiền là 30.493.000 đồng (Ba mươi triệu, bốn trăm chín mươi ba nghìn đồng).

5. Hộ ông Lê Văn X, bà Nguyễn Thị T, anh Lê Văn M được nhận giá trị cây trồng, căn trại, tiền công đào ao, lên bờ do bà Lê Thị Rảnh giao trả tổng số tiền là 30.493.000 đồng (Ba mươi triệu, bốn trăm chín mươi ba nghìn đồng).

6. Về án phí:

- Miễn nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm đối với hộ ông Lê Văn X.

- Bà Lê Thị R phải chịu 1.525.000 đồng (Một triệu, năm trăm hai mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí của bà Lê Thị R đã nộp là 1.875.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí số: BH/2018/0009261 ngày 28/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Hoàn trả lại cho bà Lê Thị R 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi nghìn đồng).

7. Về chi phí tố tụng: Buộc hộ ông Lê Văn X, bà Nguyễn Thị T, anh Lê Văn M có nghĩa vụ trả lại cho bà Lê Thị R 1.547.000 đồng (Một triệu, năm trăm bốn mươi bảy nghìn đồng).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về thời hạn, quyền kháng cáo và quyền, nghĩa vụ, thời hiệu thi hành án của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23 tháng 12 năm 2021 ông Lê Văn X là bị đơn, bà Nguyễn Thị T và anh Lê Văn M là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số: 84/2021/DS-ST ngày 14 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Ông Lê Văn X, bà Nguyễn Thị T, anh Lê Văn M không đồng ý trả phần diện tích đất đã đo đạc thực tế là 740m2, thuộc thửa đất số 1309, tờ bản đồ số 06, loại đất 2L và không đồng ý trả giá trị cho bà R.

Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh, phát biểu việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự tham gia tố tụng chấp hành tốt quy định của pháp luật và đề xuất hướng giải quyết là không chấp nhận kháng cáo của của ông X, bà T, anh M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, được kiểm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của cụ Lê Văn R1 (chết 1972) và cụ Nguyễn Thị B (chết 2017) là cha, mẹ của ông Lê Văn X và bà Lê Thị R.

Theo bà R năm 1982 cụ R1 và cụ B cho bà R phần đất có diện tích 1.000m2, bà R quản lý sử dụng được khoảng 08 năm thì cụ Biên mượn lại để giao cho ông X sử dụng, khi cụ B chết thì ông X trả lại đất, đến ngày 22/10/1991 bà R được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 1309, diện tích 1.000m2, đất lúa. Bà R yêu cầu ông X trả lại phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế có diện tích 740m2.

Ông X cho rằng phần đất tranh chấp được cụ R1 và cụ B cho ông X từ năm 1975, ông X quản lý sử dụng cho đến nay, nên không đồng ý trả lại đất.

Xét thấy, Theo lời khai của các nhân chứng Ông Nguyễn Văn N1 xác định, không biết nguồn gốc phần đất tranh chấp là của ai, ông R1 có sử dụng khoảng 03 công tầm cắt, từ năm 1975 đến nay; Ông Lê Văn N2 xác định: Ông X sử dụng phần đất tranh chấp khoản 10 năm, từ năm 2011 cho đến nay; Ông Nguyễn Văn T1 và ông Nguyễn Văn Đ đều xác định phần đất tranh chấp bà R có sử dụng được khoản 6-7 năm, thì ông X có sử dụng khoảng 10 năm. Lời khai của ông N2 không phù hợp với lời khai của ông Đ, ông N2, ông Thẩm về diện tích, thời gian sử dụng phần đất tranh chấp, ông N1 cũng không có căn cứ xác định ông X sử dụng từ năm 1975. Các nhân chứng ông N2, ông Đ, ông T1 đều xác định ông X sử dụng phần đất tranh chấp được khoảng 10 năm, phù hợp với lời khai của bà R.

Về phía ông X, bà T không có chứng chứng minh phần đất tranh chấp được cụ R1 và cụ B cho ông X quản lý sử dụng từ năm 1975. Tại phiên tòa phúc thẩm, chị N xác định phần đất tranh chấp cụ R1, cụ B và ông X sử dụng chung, sau khi cụ R1 chết thì cụ B và ông X sử dụng, khi cụ B chết ông X tiếp tục quản lý sử dụng cho đến nay.

Về phía bà R cũng không có chứng cứ chứng minh là cụ B mượn phần đất tranh chấp, để giao cho ông X sử dụng. Tuy nhiên, bà R đã được Ủy ban nhân dân huyện Thạnh Hưng (nay là huyện Lấp Vò) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22/10/1991. Đây là cơ sở pháp lý để xác định quyền sử dụng phần đất tranh chấp là của bà R.

Mặt khác, tại biên bản hòa giải ngày 13/6/2019 của Ủy ban nhân dân xã Bình Thành, huyện Lấp Vò ông X trình bày: Nếu bà R chịu hỗ trợ 50.000.000 đồng tiền công cải tạo đất và trồng cây trên đất thì ông X đồng ý di dời... Bà Rh thống nhất giao cho ông X 200m2, phần đất còn lại là của bà R. Ông X, bà R thống nhất theo biên bản hòa giải ngày 13/6/2019 và tại biên bản hòa giải ngày 15/8/2019, ông X thống nhất lấy 200m2 từ căn nhà tạm (trại) đo thẳng vào trong.

Đồng thời tại biên bản hỏa giải ngày 14/5/2021 và tại phiên tòa phúc thẩm, ông X thống nhất trả giá trị phần đất tranh chấp cho bà R giá 75.000 đ/m2.

Như vậy, chứng tỏ phần đất tranh chấp là của bà R, nên việc bà R yêu cầu ông X, bà T và anh M trả lại phần đất có diện tích 740m2 là có cơ sở.

Phần đất tranh chấp, trong quá trình quản lý, sử dụng, ông X có đào ao, trồng cây ăn trái, nếu buộc ông X, bà T, anh M đốn hoặc di dời trả lại đất cho bà R sẽ gây thiệt hại đến tài sản của ông X, bà T và anh M. Án sơ thẩm buộc bà R phải trả giá trị cây trồng cho ông X, bà T và anh M là phù hợp.

Đối với căn nhà tạm (trại) của ông X, không nằm trên phần đất trên tranh chấp, nhưng án sơ thẩm xem xét giải quyết buộc ông X giao cho bà R được quyền sở hữu căn nhà tạm (trại), bà R bồi thường giá trị cho ông X là không đúng thẩm quyền. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông X không đồng ý giao căn nhà tạm (trại) cho phía bà R, nên Hội đồng xét xử không xem xét đối với căn nhà tạm. Trường hợp mái che của căn nhà tạm có nằm trên phần đất tranh chấp thì ông X có nghĩa vụ tháo dỡ phần mái che để giao trả đất cho bà R.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà R đồng ý bồi hoàn giá trị cây trồng, công đào ao cho ông X, bà T và anh M số tiền 33.617.000 đồng. Đây là sự tự nguyện của bà R hướng có lợi cho ông X, bà T và anh M, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông X, bà T và anh M, sửa bản án sơ thẩm.

Về án phí ông Lê Văn X và bà Nguyễn Thị M là người cao tuổi có đơn xin miễn tiền án phí. Căn cứ vào khoản 1, Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, nên Hội đồng xét xử chấp nhận miễn tiền án phí cho ông X và bà R.

Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo kháng nghị.

Do giữ nguyên bản án sửa bản án sơ thẩm, nên anh M không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 203 Luật Đất đai; khoản 2, Điều 148; khoản 2, Điều 308 và 157 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn X, bà Nguyễn Thị T và anh Lê Văn M.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 84/2021/DS-ST ngày 14 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của của bà Lê Thị R.

2. Buộc hộ ông Lê Văn X, bà Nguyễn Thị T, anh Lê Văn M có nghĩa vụ di dời toàn bộ cá nuôi có trong ao, vật kiến trúc (nếu có) trả cho bà Lê Thị R diện tích đất là 740m2 thuộc thửa đất số 1309, tờ bản đồ số 6 (theo bản đồ địa chính chính quy thuộc thửa đất số 61, tờ bản đồ số 55), diện tích đất được thể hiện từ các mốc M1 đến M2 đến M3 đến M4 đến M5 về M1, đất do bà Lê Thị R đứng tên giấy quyền sử dụng đất.

(Kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 01/9/2020 và sơ đồ đo đạc ngày 29/9/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò).

3. Bà Lê Thị R được quyền sở hữu và sử dụng gồm: 06 cây dừa, 01 cây bưởi, 03 cây xoài, 54 cây mít trên diện tích là 740m2 thuộc thửa đất số 1309, tờ bản đồ số 6 (theo bản đồ địa chính chính quy thuộc thửa đất số 61, tờ bản đồ số 55).

4. Chấp nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị R có nghĩa vụ trả cho hộ ông Lê Văn X, bà Nguyễn Thị T, anh Lê Văn M giá trị cây trồng, tiền công đào ao, tổng số tiền là 33.617.000 đồng, (Ba mươi ba triệu, sáu trăm mười bảy nghìn đồng).

5. Về chi phí tố tụng:

Tổng cộng là 3.094.000 đồng, bà R đã nộp tạm ứng và đã chi xong. Bà R tự nguyện chịu ½ chi phí tố tụng. Do vậy, buộc ông Lê Văn X, bà Nguyễn Thị T, anh Lê Văn M có nghĩa vụ nộp 1.547.000 đồng (Một triệu, năm trăm bốn mươi bảy nghìn đồng), để trả lại cho bà Lê Thị R.

6. Về án phí:

- Miễn nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm đối với hộ ông Lê Văn X.

- Bà Lê Thị R phải chịu 1.680.000 đồng (Một triệu, sáu trăm tám mươi ngàn đồng), án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí của bà Lê Thị R đã nộp là 1.875.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí số: BH/2018/0009261 ngày 28/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Hoàn trả lại cho bà Lê Thị R 195.000 đồng (một trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

- Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Lê Văn X và bà T.

Anh M không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho anh M 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số 0002488 ngày 31/12/2021, tại Chi cục Thi hành án dân sư huyện Lấp Vò.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án mà người phải thi hành án chưa thi hành án xong, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 198/2022/DS-PT

Số hiệu:198/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về