Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy để giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thẩm quyền, nhận thấy có một số vấn đề kiểm sát viên cần rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong thời gian tới. Cụ thể:
Nội dung vụ án:
Ông Nguyễn T, bà Trần Thị A là chủ sở hữu, sử dụng đối với nhà và đất tại thửa đất số 588, tờ bản đồ số 7, tại địa chỉ tổ 35, phường T, quận T, thành phố Đ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BK992966 do Sở Tài nguyên và môi trường thành phố Đ cấp ngày 04/01/2013.
Ngày 14/3/2020, bà Phan Thị H là chủ sử dụng đất liền kề đã có hành vi đập mái che cửa sổ ngôi nhà và tiến hành xây dựng lấn chiếm 1,45m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông T, bà A (chiều rộng mặt trước song song và tiếp giáp với đường kiệt ra đường Trần Cao Vân, kể từ mép ngoài tường ra 0,1m; chiều rộng mặt sau phần giáp với đất trống, kể từ mép ngoài tường ra 0,2m; chiều dài cạnh giáp với nhà bà H 8,8m; chiều dài cạnh sát mép ngoài của tường 8,7m). Ủy ban nhân dân phường đã tiến hành hòa giải nhưng không thành nên ông T, bà A khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà H phải chấm dứt hành vi xây dựng lấn chiếm, tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trên diện tích đất lấn chiếm và trả lại cho ông T, bà A diện tích 1,45m2 đất (tại phiên tòa thay đổi là 1,3m2); khôi phục lại tình trạng ban đầu của mái che cửa sổ đã bị đập phá.
Bị đơn bà H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nhà của bà H được cấp phép xây dựng theo đúng quy định của pháp luật, bà xây dựng nhà đúng theo diện tích đất được cấp. Đối với yêu cầu khôi phục lại tình trạng ban đầu của mái che cửa sổ đã bị đập phá, bà H cho rằng đó không phải là mái che cửa sổ mà chỉ là gờ xi măng, bà thừa nhận thợ của bà có đập một phần gờ xi măng này.
Tại bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân quận T đã quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn T, bà Trần Thị A về việc “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất” đối với bị đơn bà Phan Thị H. Tuyên xử: Giao 0,4m2 đất có vị trí (theo sơ đồ ngày 19/11/2020) là hình tam giác EDB với đoạn ED là 0,1m, đoạn DB là 8,74m tại thửa đất số 588, tờ bản đồ số 7, địa chỉ tổ 35, phường T, quận T, thành phố Đ cho bà Phan Thị H, ông Nguyễn Quốc D được quyền sử dụng. Buộc bà Phan Thị H, ông Nguyễn Quốc D thanh toán giá trị quyền sử dụng 0,4m2 đất cho ông Nguyễn T, bà Trần Thị A với số tiền 4.720.000đ, chia phần bà H, ông D mỗi người 2.360.000đ…”.
Sau xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn T và bà Trần Thị A kháng cáo toàn bộ bản án.
Tại bản án dân sự phúc thẩm, Tòa án nhân dân thành phố Đ đã quyết định hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận T, thành phố Đ giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm do những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng sau:- Thứ nhất, xác định quan hệ pháp luật không đúng: Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án thì nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải chấm dứt hành vi xây dựng lấn chiếm, tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trên diện tích đất lấn chiếm và trả lại diện tích đất theo hiện trạng ban đầu. Như vậy, quan hệ pháp luật là “Tranh chấp quyền sử dụng đất” chứ không phải là “Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất” như Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định.- Thứ hai, về thủ tục định giá tài sản: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu nguyên đơn đề nghị Tòa án ra quyết định định giá diện tích đất tranh chấp để làm cơ sở giải quyết vụ án nhưng nguyên đơn không đồng ý việc định giá giá trị đất tranh chấp. Lẽ ra, trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm phải căn cứ điểm đ, khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định định giá theo giá nhà nước là vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự, trái với nguyên tắc định giá trong tố tụng dân sự. Quyết định của bản án sơ thẩm buộc bị đơn trả cho nguyên đơn giá trị đất theo giá nhà nước là 4.720.000đ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn và ảnh hưởng đến căn cứ để xác định nghĩa vụ về án phí của đương sự.- Thứ ba, giải quyết không đầy đủ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bị đơn tháo dỡ công trình, trả lại cho nguyên đơn phần diện tích đất lấn chiếm là 1,3m với bề ngang là 0,5m kéo dài từ trước ra sau nhà. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, theo đó xác định diện tích đất lấn chiếm là 0,4m2 cụ thể có vị trí (theo sơ đồ ngày 19/11/2020) là hình tam giác EDB với đoạn ED là 0,1m, đoạn DB là 8,74m tại thửa đất số 588, tờ bản đồ số 7, địa chỉ tổ 35, phường T, quận T, thành phố Đ mà không xem xét, giải quyết xác định chiều dài cạnh BC và cạnh có chiều dài 2,03m trong thửa đất của bị đơn là giải quyết không đầy đủ, toàn diện yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự. (Quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm, Tòa án đã trưng cầu Công ty TNHH đo đạc công trình và bản đồ NEH – chi nhánh Miền Trung thực hiện đo đạc lại diện tích tranh chấp và xác định được diện tích đất lấn chiếm là 1,2m2 – gồm cả đoạn BC theo sơ đồ ngày 19/11/2020 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ).- Thứ tư, những vi phạm khác:+ Về giám định: Theo kết quả giám định của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ thì diện tích đất tranh chấp là 0,4m2. Ông T, bà A không đồng ý kết quả giám định này và yêu cầu xác định chiều dài cạnh BC và cạnh có chiều dài 2,03m trong thửa đất của bà H theo Sơ đồ vị trí thửa đất ngày 19/11/2020 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ nhưng cấp sơ thẩm không thực hiện là vi phạm quy định tại khoản 5, Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.+ Về người tham gia tố tụng: Ông T, bà A yêu cầu bà H khôi phục lại mái che cửa sổ. Bà H khai ngôi nhà được xây dựng do hợp đồng với Công ty TNHH xây dựng S thi công trọn gói nhưng cấp sơ thẩm không đưa Công ty TNHH xây dựng S vào tham gia tố tụng để xác định trách nhiệm bồi thường hoặc khắc phục mái che thuộc về vợ chồng bà H, ông D hay Công ty TNHH xây dựng S là thiếu sót.+ Về tạm ngừng phiên tòa: Ngày 15/6/2020, Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành quyết định trưng cầu Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ thực hiện giám định ranh giới quyền sử dụng đất giữa thửa đất số 588 của ông T, bà A và thửa 587 của bà H, ông D. Trong khi Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ chưa có kết quả trả lời về việc cung cấp, làm rõ kết quả đo đạc theo Công văn số 270/CV-TA ngày 27/10/2020 của Tòa án nhưng ngày 29/10/2020, Tòa án cấp sơ thẩm ban hành Quyết định tạm ngừng phiên tòa là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm phải ban hành Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự mới đúng.+ Về án phí: Nhà và đất tại địa chỉ K112/59/3 Trần Cao V, phường T, quận T, thành phố Đ là tài sản chung hợp nhất của bà Phan Thị H và ông Nguyễn Quốc D; ông D, bà H là vợ chồng nên nghĩa vụ chịu án phí là nghĩa vụ liên đới; tuy nhiên tại phần quyết định của bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân quận T lại buộc ông D và bà H phải chịu án phí theo phần là không đúng.Với những vi phạm nêu trên, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được do đó đã tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung. Bùi Thị Hiền – VKSND thành phố Đà Nẵng