Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 14/2022/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BN ÁN 14/2022/DS-PT NGÀY 12/01/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 12 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 229/2021/TLPT-DS ngày 11 tháng 10 năm 2021 về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 133/2021/DS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 221/2021/QĐ-PT ngày 27 tháng 10 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phùng Thị Ngọc M, sinh năm 1957 Địa chỉ: Số 60B, đường K, khóm 7, phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

Người đại diện theo ủy quyền của bà M: Ông Ngô Đình C, sinh năm 1958; Địa chỉ: Số 142, đường P, khóm 2, phường 4, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Ông Lưu Lý D - sinh năm 1943 (có mặt).

Đa chỉ: Ấp Thạnh Đ, xã L, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phạm Chí E (T), sinh năm 1982 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp X, xã H, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

2. Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1970 (vắng mặt).

Đa chỉ: Số 14, ấp H, xã H, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

3. Ông Lâm Tuấn N, sinh năm 1992 (vắng mặt).

Đa chỉ: Số 448A, đường N, khóm 6, phường 9, thành phố Cà Mau.

4. Bà Bùi Thị H, sinh năm 1945 (vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp Thạnh Đ, xã L, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

- Người kháng cáo: Bà Phùng Thị Ngọc M - là nguyên đơn

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn trình bày: Vào năm 2003, bà Phùng Thị Ngọc M có nhận chuyển nhượng của ông Lưu Lý D phần đất tổng diện tích 2.490m2. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Do thể hiện diện tích đất ông Do chuyển nhượng cho bà M gồm đất trồng lúa là 1.290m2, đất lập vườn là 1.200m2, tọa lạc tại ấp Thạnh Đ, xã L, thành phố Cà Mau. Theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/8/2003 thể hiện diện tích đất chuyển nhượng được xác định chiều dài từ Đê ngăn mặn đến sông Gành Hào, không thể hiện chiều ngang và chiều dài là bao nhiêu mét, đến ngày 18/10/2003 bà M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 2.490m2 đưc xác định tại trang 2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà M có chiều dài đất từ Đê ngăn mặn đến sông Gành Hào là 83m, chiều ngang 30m, diện tích 2.490m2. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông D được cấp có tổng diện tích 22.260m2 đã chuyển nhượng cho bà M diện tích 2.490m2, phần đất của ông D còn lại là 19.770m2 được chiều chỉnh ngày 17/10/2003 tại trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông D. Hiện nay, bà M định chuyển nhượng toàn bộ phần đất trên cho ông Lâm Tuấn N nên ông N tiến hành thuê người san lắp mặt bằng số tiền thuê là 45.000.000 đồng nhưng ông D ngăn cản không cho sử dụng phần đất bảo lưu ven sông giáp với sông Gành Hào để đưa cơ giới vào cải tạo đất. Do đó bà M yêu cầu ông D phải trả cho bà M phần đất bảo lưu ven sông nằm ở vị trí mặt tiền giáp đất bà M trở ra sông Gành Hào. Ngoài ra bà M yêu cầu ông D phải bồi thường thiệt hại cho bà M số tiền 45.000.000 đồng vì ông D ngăn cản việc sang lắp mặt bằng đất của bà M. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà M rút một phần đơn khởi kiện. Không yêu cầu ông D bồi thường thiệt hại số tiền 45.000.000 đồng.

Bị đơn ông Lưu Lý D trình bày: Vào năm 2003, ông D có chuyển nhượng cho bà M phần đất diện tích 2.490m2 ta lạc tại ấp Thạnh Đ, xã L, thành phố Cà Mau thuộc thửa số 518 và 519 tờ bản đồ số 6 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân thị xã Cà Mau (nay là Thành phố Cà Mau), tỉnh Cà Mau cấp cho ông D vào ngày 12/3/1990. Trong đó chuyển nhượng đất trồng lúa là 1.290m2, đất lập vườn là 1.200m2. Đến ngày 18/10/2003, bà M được Ủy ban nhân dân thành phố Cà Mau cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 2.490m2 có chiều ngang 30m, chiều dài 83m. Do đó ông D xác định phần đất bảo lưu ven sông giáp với đất bà M và sông Gành Hào, phía trước mặt tiền đất bà M là ông D không chuyển nhượng cho bà M nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M, chỉ chấp nhận giao cho bà M đủ chiều dài đất là 83m từ Đê ngăn mặn đến sông Gành Hào, chiều ngang 30m. Phần đất hiện ông D đang quản lý ông D xác định nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông D.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị H là vợ ông D trình bày: Việc bà M khởi kiện yêu cầu ông D trả đất cho bà M bà xác định ông D không có lấn chiếm đất của bà M. Bà không đặt ra yêu cầu gì, đồng thời xin từ chối tham gia tố tụng trong vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Lâm Tuấn N và ông Nguyễn Thanh H trình bày:

Ông N và ông H đại diện cho bà M đưa tiền cho ông Phạm Chí E để thuê ông E san lắp mặt bằng đất cho bà M. Việc tranh chấp đất giữa bà M và ông Do không liên quan nên không có yêu cầu, xin từ chối tham gia hòa giải, xét xử trong vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Chí E trình bày:

Ông là người được ông Lâm Tuấn N và ông Nguyễn Thanh H thuê san lắp mặt bằng phần đất ngang 30m, dài 83m, diện tích khoảng 2.490m2, tọa lạc tại ấp Thạnh Đ, xã L, thành phố Cà Mau, kéo dài từ sông Gành Hào đến lộ xi măng (trước đây là Đê ngăn mặn). Ông chỉ mới bao xung quanh, chưa tiến hành đổ đất thì ông D ngăn cản. Ông đã nhận của ông H số tiền 45.000.000 đồng. Việc tranh chấp giữa bà M và ông D không liên quan đến ông nên ông từ chối tham gia tố tụng trong vụ án và không có đặt ra yêu cầu gì.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 133/2021/DS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phùng Thị Ngọc M.

Buộc ông Lưu Lý D giao cho bà Phùng Thị Ngọc M phần đất có diện tích là 21,3m2 tọa lạc tại ấp Thạnh Đ, xã L, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, có số đo và tứ cận như sau:

+ Phía Đông giáp với phần đất ông Lưu Lý D có cạnh dài 29,47m, có mốc từ M2a đến M7a.

+ Phía Tây giáp với phần đất của bà Phùng Thị Ngọc M cạnh dài 29,1m, có mốc từ M2 đến M7.

+ Phía Bắc giáp với đất của ông Lưu Lý D cạnh dài 1,23m, có mốc từ M2 đến M2a.

+ Phía Nam giáp với đất của ông Phạm Thành Ng cạnh dài 0,5m, có mốc từ M7 đến M7a.

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phùng Thị Ngọc M về việc yêu cầu ông Lưu Lý D trả phần đất có diện tích là 1.032,6m2 tọa lạc tại ấp Thạnh Đ, xã L, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau và không chấp nhận yêu cầu ông Lưu Lý D bồi thường thiệt hại số tiền san lắp mặt bằng là 45.000.000 đồng.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 07/7/2021, nguyên đơn bà Phùng Thị Ngọc M có đơn kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện theo ủy quyền của bà M giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và tranh luận cho rằng phần đất tranh chấp là phần đất bảo lưu ven sông Gành Hào nằm trước mặt tiền đất của bà M, khi ông D chuyển nhượng đất cho bà M được xác định chiều dài từ Đê ngăn mặn đến sông Gành Hào. Phần đất sông Gành Hào là phần đất do Nhà nước quản lý không nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông D nhưng hiện nay ông D đã chiếm và ngăn cản không cho bà M sử dụng nên bà M yêu cầu ông D phải chấm dứt hành vi ngăn cản và trả lại đất cho bà M mặc dù phần đất này bà M cũng không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thời điểm bà M nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông D.

Ông D tranh luận phần đất đang tranh chấp hiện nay là nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông D tại thời điểm ông D chuyển nhượng đất cho bà M, phần đất này hiện nay là đất bảo lưu ven sông và ông D quản lý từ trước đến nay để nuôi tôm và trồng nhiều cây đước và cây mắm bà M không ngăn cản. Do đó, hiện nay ông D chỉ chấp nhận đo đủ cho bà M phần đất chiều ngang 30m chiều dài 83m, để đất bà M đủ diện tích 2.490m2, phần đất mặt tiền giáp đất bà M với sông Gành Hào là nằm ngoài quyền sử dụng đất của bà M, ông D không chuyển nhượng cho bà M nên ông D không đồng ý cho bà M sử dụng và không đồng ý trả đất cho bà M.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án, của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bà Phùng Thị Ngọc M. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Phùng Thị Ngọc M, Hội đồng xét xử xét thấy:

Ngày 14/8/2003 ông D chuyển nhượng cho bà M phần đất diện tích 2.490m2. Trong đó đất trồng lúa là 1.290m2 thuc thửa đất số 519 tờ bản đồ số 6, đất lập vườn là 1.200m2 thuc thửa số 518 tờ bản đồ số 6. Giá chuyển nhượng là 10.000.000 đồng, không thể hiện chiều ngang, chiều dài mỗi cạnh bao nhiêu mét, chỉ thể hiện chiều dài từ Đê ngăn mặn đến sông Gành Hào. Đến ngày 18/10/2003 bà M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 2.490m2 đưc xác định tại trang 2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà M có chiều dài đất từ Đê ngăn mặn đến sông Gành Hào là 83m, chiều ngang 30m, diện tích 2.490m2.

Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông D được cấp có tổng diện tích 22.260m2 đã chuyển nhượng cho bà M diện tích 2.490m2, phần đất của ông D còn lại là 19.770m2 được chiều chỉnh ngày 17/10/2003 tại trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông D. Tại thời điểm bà M nhận chuyển nhượng đất của ông D các bên đều thống nhất phần đất ông D chuyển nhượng cho bà M mặt tiền giáp sông Gành Hào, mặt hậu giáp Đê ngăn mặn, chiều dài được xác định từ Đê ngăn mặn đến sông Gành Hào là hết chiều dài đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông D. Theo biên bản xác minh đất của UBND xã Lý Văn Lâm ngày 06/9/2003 và trích lục bản đồ địa chính ngày 08/9/2003 thể hiện, ông D chuyển nhượng cho bà M diện tích đất 2.490m2 có vị trí hướng Đông giáp sông Gành Hào, hướng Tây giáp Đê ngăn mặn, hướng Nam giáp thửa 543 và hướng Bắc giáp thửa 527 + thửa 528.

Như vậy tại thời điểm ông D chuyển nhượng đất cho bà M thì ông D không còn phần đất nào giáp Sông Gành Hào. Hiện nay ông D cho rằng phần đất tranh chấp có mặt tiền giáp đất bà M trở ra sông Gành Hào là của ông D vì ông D không chuyển nhượng cho bà M nên hiện nay ông D chiếm phần đất này để sử dụng là không phù hợp.

[2] Theo Công văn số 3406/UBND – ĐĐ ngày 17/12/2021 và Công văn số 63/UBND-ĐĐ ngày 10/01/2022 của UBND thành phố Cà Mau xác định phần đất ngoài diện tích đất 2.490m2 bà M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hiện nay đang tranh chấp với ông D có diện tích 960,4m2, tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà M thể hiện nguồn gốc Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất cũng như Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định mà không có nguồn gốc được Nhà nước giao đất, cho thuê thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất tranh chấp hiện nay Nhà nước chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất.

[3] Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/12/2021 do Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau kết hợp với chính quyền địa phương xã Lý Văn Lâm tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ phần đất tranh chấp hiện nay thể hiện ông D và bà M đều thừa nhận trên diện tích đất tranh chấp giữa bà M và ông D có các cây đước và cây mắm tự mọc, trên đất tranh chấp cũng không có công trình kiến trúc gì. Vì vậy, tại phiên tòa phúc thẩm, ông D cho rằng phần đất tranh chấp hiện nay ông D đang bao bờ để nuôi tôm và trồng nhiều cây đước và cây mắm là không có cơ sở. Hiện nay ông D đang chiếm phần đất tranh chấp và ngăn cản không cho bà M đưa cơ giới vào đất của bà M để cải tạo đất nên bà M yêu cầu ông D giao trả đất cho bà M cũng không có cơ sở, vì phần đất tranh chấp hiện nay được xác định là đất nuôi trồng thủy sản do Nhà nước quản lý, bà M và ông D đều chưa được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên phần đất tranh chấp hiện nay giáp với mặt tiền đất bà M trở ra sông Gành Hào, nên bà M có quyền yêu cầu cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật về đất đai. Do đó bà M kháng cáo yêu cầu ông D giao đất cho bà M là không có cơ sở nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Đối với diện tích đất bà M đang quản lý hiện nay được xác định theo bản trích đo hiện trạng ngày 21/6/2021 của Trung tâm kỹ thuật – Công nghệ - Quan trắc – Tài nguyên và môi trường tỉnh Cà Mau thể hiện bà M quản lý, sử dụng có diện tích 2.028,1m2 nhưng có chiều dài một cạnh M1-M2 giáp đất ông Do là 81,77m thiếu 1,23m và chiều dài một cạnh giáp M8-M7 giáp với đất ông Nghiệp là 82,5m thiếu 0,5m so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà M được cấp có chiều dài 83m. Ông D đồng ý trả lại cho bà M phần chiều dài đất do ông D lấn chiếm để phần đất bà M có chiều dài đủ 83m, do đó cấp sơ thẩm buộc ông D phải giao cho bà M diện tích đất là 21,2m2 đưc thể hiện ở vị trí M2M2aM7aM7 là phù hợp.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

[6] Án phí dân sự phúc thẩm: Do bà M là người cao tuổi nên được Hội đồng xét xử chấp nhận miễn án phí phúc thẩm cho bà M.

[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Phùng Thị Ngọc M. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 133/2021/DS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phùng Thị Ngọc M.

Buộc ông Lưu Lý D giao cho bà Phùng Thị Ngọc M phần đất có diện tích là 21,2m2 ta lạc tại ấp Thạnh Điền, xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, có vị trí như sau:

+ Phía Đông giáp với phần đất nuôi trồng thủy sản có cạnh dài 29,47m, có mốc từ M2a đến M7a.

+ Phía Tây giáp với phần đất của bà Phùng Thị Ngọc M cạnh dài 29,1m, có mốc từ M2 đến M7.

+ Phía Bắc giáp với đất của ông Lưu Lý D cạnh dài 1,23m, có mốc từ M2 đến M2a.

+ Phía Nam giáp với đất của ông Phạm Thành Nghiệp cạnh dài 0,5m, có mốc từ M7 đến M7a.

(Kèm theo bản trích đo hiện trạng do Trung tâm Kỹ thuật – Công nghệ - Quan trắc - Tài nguyên và Môi trường tỉnh Cà Mau ký ngày 14/9/2020 và ngày 21/6/2021).

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phùng Thị Ngọc M về việc yêu cầu ông Lưu Lý D trả phần đất có diện tích là 1.032,7m2 tọa lạc tại ấp Thạnh Đ, xã L, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau và yêu cầu ông Lưu Lý D bồi thường thiệt hại số tiền san lắp mặt bằng là 45.000.000 đồng.

Về chi phí tố tụng: Bà Phùng Thị Ngọc M phải chịu chi phí xem xét, đo đạc, thẩm định tại chỗ số tiền 5.476.000 đồng. Đã qua, bà M đã nộp đủ.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phùng Thị Ngọc M, ông Lưu Lý D được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phùng Thị Ngọc M được miễn nên không phải chịu 300.000 đồng. Ngày 08 tháng 7 năm 2021 bà M đã nộp tạm ứng số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001286 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được nhận lại.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 14/2022/DS-PT

Số hiệu:14/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về