Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 60/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 60/2022/HNGĐ–ST NGÀY 25/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 25 tháng 03 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1838/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2022/QĐXX-ST ngày 15 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 75/2022/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 03 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1987.

HKTT: 427/MH, xã M, huyện B, tỉnh B.

Địa chỉ liên hệ: tổ 4, khu phố 6, phường L, thành phố B, tỉnh Đ.

Bị đơn: Ông Trương Công N, sinh năm 1986.

Địa chỉ: tổ 4, khu phố 6, phường L, thành phố B, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời trình bày tại biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 13/12/2021, nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Trương Công N kết hôn vào năm 2010, tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh B, hôn nhân tự nguyện. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, không có tiếng nói chung và tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trương Công N để trả tự do cho nhau.

Về con chung: Có 01 con tên Trương Đăng K, sinh ngày 17/3/2011. Ly hôn, bà yêu cầu được nuôi dưỡng cháu K, không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

* Tại bản tự khai, lời trình bày tại biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 13/12/2021, bị đơn ông Trương Công N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian kết hôn cũng như nơi đăng ký kết hôn đúng như bà Nguyễn Thị D trình bày. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Mỗi lần cãi vã thì bà D lại bỏ nhà ra đi rồi lại quay về. Đến tháng 10 năm 2021 thì bà D dẫn con bỏ về ngoại sinh sống cho đến nay. Ông cần có thời gian để vợ chồng ngồi lại nói chuyện với nhau nên bà D xin ly hôn thì ông không đồng ý.

Về con chung: Có 01 con tên Trương Đăng K, sinh ngày 17/3/2011. Ly hôn, ông cũng thống nhất như ý kiến của bà D. Đồng ý giao cháu K cho bà D nuôi dưỡng, tạm thời ông chưa cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Nguyễn Thị D; Về con chung: Ghi nhận sự thoả thuận của các bên về việc giao cháu K cho bà D trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng, tạm thời ông N chưa cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết; Về nợ chung: Không có; Về án phí đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà D có đơn xin vắng mặt khi xét xử, bị đơn ông N mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đến tòa để tham gia phiên tòa xét xử nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, căn cứ theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà D và ông N.

[2] Về thẩm quyền: Bà D khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông N, có địa chỉ nơi cư trú: tổ 4, khu phố 6, phường L, thành phố B, tỉnh Đ. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà D và ông N tự nguyện kết hôn vào năm 2010, tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh B theo luật định nên căn cứ Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, công nhận hôn nhân giữa bà D và ông N là hợp pháp.

[4] Qua đơn xin ly hôn của bà D, tại bản tự khai của các bên và lời trình bày tại các biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giải cho thấy mâu thuẫn giữa bà D và ông N là có thật thể hiện ở việc bà D và ông N không còn chung sống với nhau, cả hai đã không còn quan tâm lo lắng, chia sẻ cho nhau. Trong thời gian ly thân cả hai đều không có thiện chí để vợ chồng hàn gắn đoàn tụ. Nhận thấy mục đích hôn nhân giữa bà D và ông N từ lâu đã không còn đạt được nên nếu có tạo điều kiện về thời gian cho cả hai hòa giải hàn gắn cũng không có kết quả, vì vậy căn cứ Điều 56, 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận đơn xin ly hôn của bà D, giải quyết cho bà D được ly hôn với ông N.

[5] Về con chung: Có 01 con tên Trương Đăng K, sinh ngày 17/3/2011. Ghi nhận sự thoả thuận giữa các bên, giao cháu K cho bà D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng, tạm thời ông N chưa cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung: Các bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[7] Về nợ chung: Các bên trình bày không có, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà D phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

[9] Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 238, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 110, 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Nguyễn Thị D. Bà D được ly hôn ông Trương Công N.

Về con chung: Giao cháu Trương Đăng K, sinh ngày 17/3/2011 cho bà D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng, tạm thời ông N chưa cấp dưỡng nuôi con.

Ông N không trực tiếp nuôi con nên được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Hai bên tư thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về nợ chung: Không có, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà D phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0000282 ngày 09/11/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Bà D và ông N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 60/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:60/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về