Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 157/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 157/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG 

Ngày 27 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TT xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 55/2021/TLST - HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2021 về Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXX-ST ngày 05 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1997 (có mặt tại phiên tòa);

Đa chỉ: Thôn 1, xã TX, huyện TT, Thành phố Hà Nội.

- Bị đơn: Anh Phan Lạc T, sinh năm 1994 (có mặt tại phiên tòa); Điạ chỉ: Thôn BM, xã HB, huyện TT, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật cho anh T: Ông Phan Lạc C, sinh năm 1970 (có mặt tại phiên tòa);

Điạ chỉ: Thôn BM, xã HB, huyện TT, Thành phố Hà Nội.

(Là bố đẻ anh Phan Lạc T).

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho anh T: Bà Nguyễn Thị H - Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/3/2021 cùng các bản khai, biên bản hòa giải ngày 23/4/2021; ngày 10/6/2021; ngày 25/6/2021 và trong quá trình tham gia tố tụng tại Toà án của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị và anh Phan Lạc T kết hôn với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn ngày 15/11/2017 tại UBND xã HB, huyện TT, thành phố Hà Nội trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc do không hợp nhau, thường xuyên bất đồng. Bên cạnh đó, chị cũng không hoà hợp được với mẹ chồng, khiến mâu thuẫn vợ chồng càng trầm trọng. Khi chị mang thai sức khoẻ rất yếu, gia đình nhà chồng vẫn bắt chị phải làm việc, chửi bới chị, đuổi chị ra khỏi nhà. Do không chịu đựng được cách đối xử của gia đình nhà chồng nên tháng 4/2020 chị phải về nhà mẹ đẻ ở xã TX, huyện TT, thành phố Hà Nội ở. Vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Anh T và gia đình không gọi chị về, cũng không thăm nom con chung. Nay chị đã hết tình cảm vợ chồng với anh T, đề nghị Toà án giải quyết cho chị ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Phan Lạc Minh N, sinh ngày 22/7/2018. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hiện chị đang làm công nhân ở xã HB, thu nhập trung bình mỗi tháng từ 8 đến 9 triệu đồng.

Về tài sản chung vợ chồng, công nợ: Không có.

Bị đơn anh Phan Lạc T trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị H có thời gian tìm hiểu 2 tháng trước khi đi đến kết hôn, vợ chồng anh kết hôn với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn ngày 15/11/2017 tại UBND xã HB, huyện TT, thành phố Hà Nội trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc do không hợp nhau, thường xuyên bất đồng. Chị H là vợ nhưng không ngoan ngoãn, lễ phép với chồng và bố mẹ chồng, thường xuyên cãi lời chồng và bố mẹ chồng. Đến tháng 4/2020 chị Hẳng bỏ về nhà mẹ đẻ. Anh và gia đình không gọi chị H về vì tính cách chị H như vậy anh không ở được với chị H. Vợ chồng ly thân từ đó đến nay không ai còn quan tâm đến ai. Nay anh đã hết tình cảm vợ chồng với chị H, chị H xin ly hôn anh đồng ý.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Phan Lạc Minh N, sinh ngày 22/7/2018. Ly hôn, anh có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Trong thời gian ly thân, anh có đến thăm con nhưng chị H ngăn cản. Hiện anh làm nghề mộc cùng bố tại gia đình ở xã HB, huyện TT. Thu nhập của anh nằm trong tổng thu nhập của gia đình, anh không biết thu nhập cụ thể bao nhiêu, cũng không có giấy tờ chứng minh thu nhập. Anh bị bệnh u máu bẩm sinh, một bên mắt bị mờ, chân tay yếu, hàng tháng nhận được trợ cấp của Uỷ ban nhân dân xã HB.

Về tài sản, về nợ: Không có.

Ngưi đại diện theo pháp luật cho anh T là ông Phan Lạc C trình bày:

Anh Phan Lạc T là con đẻ của ông, còn chị Nguyễn Thị H là vợ anh T. Năm 2017, sau khoảng 2 tháng tìm hiểu anh T và chị H kết hôn với nhau. Sau khi cưới thì anh chị sống cùng vợ chồng ông C. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên bất đồng quan điểm. Phía chị H là con dâu nhưng không tôn trọng chồng và bố mẹ chồng, cãi lời bố mẹ chồng. Gia đình đã khuyên bảo nhưng chị H không thay đổi, đến năm 2019 tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ tại xã TX, huyện TT, vợ chồng ông C là bà Nguyễn Thị B có gọi chị H về, chị H có về được 4 tháng rồi vợ chồng không hoà hợp được. Đến tháng 4/2020 chị H lại về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Nay chị H xin ly hôn, đề nghị Toà án giải quyết theo nguyện vọng của chị.

Anh chị có 01 con chung là Phan Lạc Minh N, sinh năm 2018, hiện đang ở với mẹ. Ly hôn đề nghị Toà án xem xét giao cháu cho bố trực tiếp nuôi dưỡng vì chị H không đủ điều kiện nuôi con. Mặc dù chị H có thu nhập nhưng nhiều khi cháu ốm đau chị H không thể chu đáo và chăm sóc cháu tốt được.

Anh T bị dị dạng mạch máu não bẩm sinh, nên thể trạng yếu, còn nhận thức vẫn bình thường, giao tiếp bình thường. Khi thời tiết bình thường thì anh T vẫn làm việc bình thường, chỉ khi thời tiết quá nóng hoặc quá lạnh thì sức khoẻ giảm sút. Sinh hoạt cá nhân thì anh T vẫn tự làm được, không cần ai trợ giúp.

Hiện nay, mỗi tháng anh T được nhận số tiền trợ cấp xã hội là 500.000đồng, cách đây khoảng gần chục năm thì hàng tháng anh T được nhận mức trợ cấp là 250.000đồng.

Tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn giữ nguyên yêu cầu, ý kiến của mình.

Chứng cứ các đƣơng sự giao nộp:

- Đơn khởi kiện;

- Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản sao);

- Trích lục khai sinh của cháu Phan Lạc Minh N (bản sao);

- Căn cước công dân của chị Nguyễn Thị H (bản sao);

- Đơn xin xác nhận nơi cư trú của chị Nguyễn Thị H;

- Sổ hộ khẩu (bản sao);

Bà Nguyễn Thị H - Trợ giúp viên pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm bảo vệ: Chị H không có chỗ ở ổn định, thu nhập không đảm bảo về điều kiện nuôi con. Anh T ở cùng với gia đình có chỗ ở ổn định. Công việc của anh T làm nghề thợ mộc cùng với gia đình, thu nhập đều hàng tháng, có điều kiện nuôi con tốt hơn để đảm bảo phát triển sau này của cháu.

Đại diện Viện Kim sát nhân dân huyện TT phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: Việc Tòa án nhân dân huyện TT thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, đúng pháp luật. Việc xác định quan hệ pháp luật và tư cách người tham gia tố tụng là đúng pháp luật. Việc thu thập chứng cứ đầy đủ, thủ tục hòa giải đã được tiến hành đúng pháp luật; Thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo, việc chuyển hồ sơ, cấp tống đạt văn bản tố tụng đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 57, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị H.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

a án nhân dân huyện TT đã thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị H. Bị đơn anh Phan Lạc T cư trú trên địa bàn huyện TT, thành phố Hà Nội. Do vậy Toà án nhân dân huyện TT thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền quy định tại Điều 28, Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

2.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Phan Lạc T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân HB, huyện TT, TP Hà Nội ngày 15/11/2017. Do vậy quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh T được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc sau đó thì xảy ra mâu thuẫn trầm trọng.

Quá xác minh tại gia đình và địa phương nơi anh T sinh sống cho thấy nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chị H và anh T mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm, lối sống. Tòa án cũng đã tiến hành hòa giải nhiều lần và tạo điều kiện về thời gian để hai bên tìm phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Song chị H đã xác định tình cảm vợ chồng không còn, còn anh T cũng đồng ý ly hôn chị H, thể hiện mâu thuẫn giữa chị H và anh T đã đến mức độ trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên cần cho chị H ly hôn anh T để hai bên sớm ổn định cuộc sống.

2.2. Về con chung: Xác định chị H và anh T có 01 con chung là Phan Lạc Minh N, sinh ngày 22/7/2018.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà chị H và anh T đều có nguyện vọng tha thiết được nuôi con, đây là nguyện vọng chính đáng của hai bên. Tuy nhiên qua xem xét hoàn cảnh thực tế của con chung và của hai bên gia đình cho thấy: Cháu Phan Lạc Minh N còn nhỏ tuổi, từ khi sinh ra đến nay vẫn sống cùng mẹ. Chị H có thu nhập, có nơi ở và phía gia đình chị H vẫn tạo điều kiện ăn, ở, sinh hoạt cho chị H và con. Phía anh T bị khuyết tật bẩm sinh, sức khoẻ yếu, phụ thuộc nhiều vào gia đình nên không thể chăm sóc tốt cho cháu Nhật khi mà cháu Nhật còn nhỏ tuổi. Do vậy cần giao cháu Phan Lạc Minh N cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, để đảm bảo cháu được phát triển bình thường và không bị xáo trộn sinh hoạt, học tập của cháu.

Chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên tại phiên tòa anh T tự nguyện đóng góp nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng là 2.000.000 đồng từ tháng 9/2021 cho đến khi cháu Phan Lạc Minh N đủ 18 tuổi có cơ sở để chấp nhận.

2.3. Về tài sản, công sức, nợ chung: Không có.

[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 243, 245, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1. Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H.

1.1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Phan Lạc T.

1.2. Về con chung: Giao cháu Phan Lạc Minh N, sinh ngày 22/7/2018 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu N đủ 18 tuổi. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T đóng góp nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng 2.000.000 đồng kể từ tháng 9/2021 cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được cản trở.

1.3. Về tài sản, công nợ: Không có.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lại thu số 0011975 ngày 25 tháng 3 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TT, thành phố Hà Nội. Anh Phan Lạc T phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

3. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 157/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:157/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về