Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 65/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 65/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 31 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 128/2021/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 35/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Mạnh C, sinh năm 1977

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1982

Cùng nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện Q, tỉnh Thái Bình (Tại phiên tòa có mặt anh C, vắng mặt chị N)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/01/2021 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Phạm Mạnh C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị N tự do, tự nguyện tìm hiểu dẫn đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Q vào ngày 09/10/2000. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh. Cuộc sống hạnh phúc, hòa thuận đến năm 2006 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, chị N lại có lối sống không trung thực. Mâu thuẫn căng thẳng vào năm 2016, chị N đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn M, xã H sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng giữa anh và chị N không còn, anh xin ly hôn chị N.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Phạm Việt K sinh ngày 31/01/2001, Phạm Việt T sinh ngày 06/12/2002 và Phạm Quỳnh A sinh ngày 02/01/2015, hiện đang ở với anh. Ly hôn, con Phạm Việt K và Phạm Việt T đã trường thành nên không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng, anh nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Quỳnh A, anh không yêu cầu chị N cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn chị Nguyễn Thị N vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

Kết quả xác minh với bà Nguyễn Thị N1sinh năm 1973 (là mẹ đẻ của chị Nguyễn Thị N), cơ sở Thôn Đ và thôn M, xã H, huyện Q thấy:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Mạnh C và chị Nguyễn Thị N là vợ chồng. Quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng thì gia đình và cơ sở thôn không biết rõ chỉ biết anh C có biểu hiện không chung thủy, còn chị N có lối sống không trung thực, đã nhiều lần cơ sở thôn hòa giải nhưng không có kết quả, cách đây khoảng 5 – 6 năm thì chị N không sinh sống tại gia đình anh C nữa mà bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn M, xã H sinh sống và có đi làm ăn xa. Nay anh C có đơn xin ly hôn chị N, gia đình và cơ sở thôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh Phạm Mạnh C và chị Nguyễn Thị N có 03 con chung là Phạm Việt K sinh ngày 31/01/2001, Phạm Việt T sinh ngày 06/12/2002 và Phạm Quỳnh A sinh ngày 02/01/2015, hiện đang ở với anh C. Ly hôn, con Phạm Việt K và Phạm Việt Tđã trường thành nên không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng. Đối với con chung Phạm Quỳnh Avề giao con và cấp dưỡng cho con đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về tài sản: Gia đình và cơ sở thôn không biết rõ.

Chị Nguyễn Thị N vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn Đ, xã H nhưng chị N có đi làm ăn tại Hưng Yên, địa chỉ cụ thể gia đình và cơ sở thôn không biết nhưng chị N thường xuyên liên hệ về với gia đình và mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị N1. Ở địa phương anh C lao động tự do (thợ xây). Mức thu nhập cụ thể của chị N và anh C thì gia đình và cơ sở thôn không biết.

Bà Nguyễn Thị N1 còn cung cấp: Bà đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án và đã giao các văn bản này cho chị Nguyễn Thị N. Chị N có quan điểm: Chị nhất trí ly hôn với anh C; Vợ chồng có 03 con chung như anh C đã trình bày. Ly hôn, con Phạm Việt K và Phạm Việt T đã trưởng thành nên không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng. Chị có nguyện vọng nuôi con Phạm Quỳnh A nhưng nếu anh C nhận nuôi thì chị cũng đồng ý; Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt nên Viện kiểm sát không có ý kiến về chấp hành pháp luật tại phiên tòa của bị đơn.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Về quan hệ hôn nhân: xử cho anh Phạm Mạnh C được ly hôn chị Nguyễn Thị N; Về con chung: Con chung Phạm Việt K sinh ngày 31/01/2001 và Phạm Việt T sinh ngày 06/12/2002 đều đã trưởng thành nên không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng. Giao con chung Phạm Quỳnh A sinh ngày 02/01/2015 cho anh Phạm Mạnh C trực tiếp nuôi dưỡng, anh C không yêu cầu chị N cấp dưỡng cho con. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Về tài sản chung: không đặt ra giải quyết; Về án phí: anh C phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Phạm Mạnh C khởi kiện ly hôn và nuôi con chung với chị Nguyễn Thị N, do chị N là bị đơn cư trú tại xã H, huyện Q, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện Q, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. chị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Phạm Mạnh C và chị Nguyễn Thị N được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân xã H, huyện Q, tỉnh Thái Bình cấp đăng ký kết hôn số 75 ngày 09/10/2000 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh C. Cuộc sống hạnh phúc hòa thuận năm 2006 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C có biểu hiện không chung thủy, còn chị N có lối sống không trung thực, cơ sở thôn đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn căng thẳng vào năm 2016 chị N bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn M, xã H sinh sống, sau đó đi làm ăn tại Hưng Yên, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay anh C xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị N không còn, anh xin ly hôn chị N. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng chị N không có mặt, chị N không có thiện chí hòa giải đoàn tụ, mặt khác trong suốt quá trình giải quyết vụ án đến nay vợ chồng vẫn tiếp tục ly thân, không ai quan tâm đến ai, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa anh C và chị N đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, vì vậy cần xử cho anh C được ly hôn chị N là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh Phạm Mạnh C và chị Nguyễn Thị N có 03 con chung Phạm Việt K sinh ngày 31/01/2001, Phạm Việt T sinh ngày 06/12/2002 và Phạm Quỳnh Asinh ngày 02/01/2015, hiện đang ở với anh C. Ly hôn, con Phạm Việt K và Phạm Việt Tđã trường thành tự lo cuộc sống bản thân nên không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng. Anh C nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Quỳnh Anh, anh không yêu cầu chị N cấp dưỡng cho con, còn chị N không có quan điểm trình bày. Xét nguyện vọng nuôi con của anh C là chính đáng, anh C có đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung, con chung lại đang ở trực tiếp với anh C, anh C chăm sóc nuôi dưỡng con rất chu đáo, để không ảnh hưởng đến cuộc sống của con chung nên cần giao con chung Phạm Quỳnh Asinh ngày 02/01/2015 cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, anh C không yêu cầu chị N cấp dưỡng cho con là đáp ứng được nguyện vọng của anh C cũng như tình hình thực tế của con chung và phù hợp với Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Anh Phạm Mạnh C không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn chị Nguyễn Thị N không có ý kiến trình bày nên về tài sản chung Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Anh Phạm Mạnh C phải chịu cả tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Về quyền kháng cáo: Anh Phạm Mạnh C và chị Nguyễn Thị N có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 và Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Phạm Mạnh C được ly hôn chị Nguyễn Thị N.

2.Về nuôi con chung: Con chung Phạm Việt K sinh ngày 31/01/2001và Phạm Việt Tsinh ngày 06/12/2002 đều đã trưởng thành tự lo cuộc sống của bản thân nên không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng. Xử giao con chung Phạm Quỳnh A sinh ngày 02/01/2015 cho anh Phạm Mạnh C trực tiếp nuôi dưỡng, anh C không yêu cầu chị Nguyễn Thị N cấp dưỡng cho con. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

4.Về án phí: Anh Phạm Mạnh C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng anh C đã nộp theo biên lai thu số 0004410 ngày 09 tháng 6 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q được chuyển thành tiền án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Anh Phạm Mạnh C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Nguyễn Thị N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 65/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:65/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về