Bản án về tranh chấp ly hôn số 862/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 862/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 551/2021/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 134/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị Ngọc L; sinh năm: 1983; địa chỉ: Đường A, Phường B, quận C, TP. Hồ Chí Minh. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc H sinh năm: 1979; địa chỉ: Đường D, Phường E, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 5 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trịnh Thị Ngọc L trình bày như sau:

Về hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Ngọc H tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số:

194 của Ủy ban nhân dân Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01 tháng 11 năm 2004. Vợ chồng chung sống đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn do ông H thường xuyên đánh vợ con, mặc dù đã nói chuyện nhiều lần nhưng không giải quyết được khiến cho mâu thuẫn thêm trầm trọng. Hai vợ chồng đã ly thân từ tháng 4/2021 đến nay, mạnh ai nấy sống không ai quan tâm đến ai. Nay bà nhận thấy giữa hai bên không còn tình cảm, không có khả năng hàn gắn nên bà xin ly hôn ông Nguyễn Ngọc H để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Bà L xác nhận cả hai có 01 con chung tên là Nguyễn Trịnh Thanh T, sinh ngày 09/01/2008. Bà yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi trẻ Thanh T đủ 18 tuổi và không yêu cầu ông Nguyễn Ngọc H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà xác nhận cả hai không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông Nguyễn Ngọc H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn là bà Trịnh Thị Ngọc L có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn là ông Nguyễn Ngọc H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tự khai, tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: Bà Trịnh Thị Ngọc L được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc H; về con chung: Giao con chung tên là Nguyễn Trịnh Thanh T, sinh ngày 09/01/2008 cho bà Trịnh Thị Ngọc L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, bà L không yêu cầu giải quyết cấp dưỡng nuôi con nên không xét; về tài sản chung và nợ chung: Bà L khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 194 của Ủy ban nhân dân Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01 tháng 11 năm 2004 thì quan hệ hôn nhân giữa bà Trịnh Thị Ngọc L và ông Nguyễn Ngọc H là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được Luật Hôn nhân và Gia đình điều chỉnh.

Căn cứ đơn khởi kiện của bà Trịnh Thị Ngọc L thì đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Tại thời điểm nộp đơn khởi kiện, bị đơn là ông Nguyễn Ngọc H thực tế cư trú tại quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh nên tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Gò Vấp theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là bà Trịnh Thị Ngọc L có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là ông Nguyễn Ngọc H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Trịnh Thị Ngọc L và ông Nguyễn Ngọc H theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Trịnh Thị Ngọc L và ông Nguyễn Ngọc H tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn vào ngày 01 tháng 11 năm 2004 tại Ủy ban nhân dân Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh nên quan hệ hôn nhân giữa Trịnh Thị Ngọc L và ông Nguyễn Ngọc H là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, ông bà sống hạnh phúc được một khoảng thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do đó bà L yêu cầu ly hôn.

Xét thấy, vợ chồng phải có nghĩa vụ chung sống với nhau, yêu thương, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Tuy nhiên, do mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn nên bà Trịnh Thị Ngọc L và ông Nguyễn Ngọc H đã sống ly thân từ tháng 4/2021 đến nay. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với ông Nguyễn Ngọc H đến Tòa án để tự khai, tham gia phiên họp về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do, cũng như không nộp cho Tòa án ý kiến hay yêu cầu của mình về việc giải quyết vụ án. Điều này thể hiện ông H hoàn toàn không quan tâm đến yêu cầu ly hôn của bà L và cũng không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng, không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà Trịnh Thị Ngọc L là có căn cứ để chấp nhận theo quy định tại các Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung:

Căn cứ lời khai của bà Trịnh Thị Ngọc L xác định được: Cả hai có 01 con chung tên Nguyễn Trịnh Thanh T, sinh ngày 09/01/2008. Bà yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi trẻ Thanh T đủ 18 tuổi. Theo lời khai của bà L, do ông Nguyễn Ngọc H thường xuyên đánh vợ con nên bà phải đưa con về nhà mẹ ruột sống. Từ ngày 21/4/2021, bà đã về sống cùng con tại nhà mẹ ruột.

Tại bản trình bày nguyện vọng ngày 24/11/2021, trẻ Thanh T có nguyện vọng được ở, sống chung với bà L. Mặt khác, trẻ Thanh T là bé gái, đang trong giai đoạn mới lớn, cần được người mẹ chăm sóc. Nhằm tạo điều kiện cho trẻ được ổn định, không bị xáo trộn về mặt tâm lý cũng như trong cuộc sống và căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của trẻ, Hội đồng xét xử giao trẻ Nguyễn Trịnh Thanh T, sinh ngày 09/01/2008 cho bà Trịnh Thị Ngọc L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét về nghĩa vụ cấp dưỡng: Bà Trịnh Thị Ngọc L không yêu cầu ông Nguyễn Ngọc H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3.3] Về tài sản chung: Bà Trịnh Thị Ngọc L khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3.4] Về nợ chung: Bà Trịnh Thị Ngọc L khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp về việc giải quyết vụ án về quan hệ hôn nhân, về con chung, về tài sản chung và nợ chung là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì bà Trịnh Thị Ngọc L phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về hôn nhân và gia đình được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà Trịnh Thị Ngọc L đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2019/0028496 ngày 14/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Trịnh Thị Ngọc L đã nộp đủ án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 273; Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Các điều 51, 55, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị Ngọc L:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trịnh Thị Ngọc L được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc H.

(Giấy chứng nhận kết hôn số: 194 của Ủy ban nhân dân Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01 tháng 11 năm 2004 hết hiệu lực).

- Về con chung: Bà Trịnh Thị Ngọc L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Trịnh Thanh T, sinh ngày 09/01/2008 cho đến khi trẻ Thanh T đủ 18 tuổi. Ông Nguyễn Ngọc H không cấp dưỡng nuôi con do bà Trịnh Thị Ngọc L không yêu cầu.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ; người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về tài sản chung: Bà Trịnh Thị Ngọc L khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Bà Trịnh Thị Ngọc L khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về hôn nhân và gia đình là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng, bà Trịnh Thị Ngọc L phải chịu, được trừ vào 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí mà bà Trịnh Thị Ngọc L đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2019/0028496 ngày 14/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Trịnh Thị Ngọc L đã nộp đủ án phí.

Bà Trịnh Thị Ngọc L và ông Nguyễn Ngọc H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
  • Tên bản án:
    Bản án về tranh chấp ly hôn số 862/2022/HNGĐ-ST
  • Số hiệu:
    862/2022/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    21/06/2022
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 862/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:862/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về