TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 39/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 04 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 103/2022/TLST-HNGĐ ngày 25/02/2022 về việc “Tranh chấp ly hôn”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 50/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13/6/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 80/2022/QĐ-ST ngày 28/6/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2022/QĐ-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trương Thị Thanh H, sinh năm: 1986. Địa chỉ: Số 21 THT, Phường x, thành phố Đà Lạt.
- Bị đơn: Anh Lê Thành Ph, sinh năm: 1981.
Địa chỉ: Số 18/64 ĐDT, Phường y, thành phố Đà Lạt.
(Chị H có mặt tại phiên tòa, anh Ph vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/02/2022 và lời khai của nguyên đơn chị Trương Thị Thanh H trình bày:
Anh chị kết hôn năm 2004 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân Phường y, thành phố Đà Lạt cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 13/4/2004.
Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống tại 18/64 ĐDT, Phường y, thành phố Đà Lạt.
Vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, không có tiếng nói chung, vợ chồng thường xuyên cải nhau. Vợ chồng hiện đang sống ly thân từ năm 2018.
Nay chị xác định không còn tình cảm với anh Ph nên đề nghị ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Lê Ngọc Bích Hậu, sinh ngày 21/02/2004; Lê Ngọc Bích Ph, sinh ngày 05/7/2006; Lê Hoàng S, sinh ngày 07/5/2013. Hiện nay các con đang ở với chị; khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi các con chung và riêng cháu Lê Ngọc Bích H, sinh ngày 21/02/2004 đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề con chung.
Về cấp dưỡng nuôi con chung chị không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị không trình bày gì thêm.
Đối với bị đơn anh Lê Thành Ph đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Ph vẫn vắng mặt không có lý do nên không có lời khai của anh Ph trong hồ sơ vụ án.
Do anh Ph vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa hôm nay, chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Lê Thành Ph. Về con chung: có 03 con chung là Lê Ngọc Bích H, sinh ngày 21/02/2004; Lê Ngọc Bích Ph, sinh ngày 05/7/2006; Lê Hoàng S, sinh ngày 07/5/2013, hiện nay các con đang ở với chị. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi các con chung và chị đang làm môi giới bất động sản đủ kinh tế để nuôi các con chung nên không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng nhận định:
Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán từ khi nhận đơn khởi kiện đến khi thụ lý tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, đương sự và thu thập chứng cứ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự còn bị đơn không chấp hành và không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa hôm nay, Thư ký Tòa án, Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị H. Về con chung: giao con chung Lê Ngọc Bích Ph, sinh ngày 05/7/2006; Lê Hoàng S, sinh ngày 07/5/2013 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên. Riêng cháu Lê Ngọc Bích H, sinh ngày 21/02/2004 đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết và chị H không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Nguyên đơn chị H và bị đơn anh Ph có đăng ký kết hôn, nay chị H có đơn yêu cầu được ly hôn với anh Ph; hiện nay bị đơn anh Ph sinh sống và làm việc tại Phường 4, thành phố Đà Lạt. Vì vậy, cần xác định quan hệ tranh chấp là: “Tranh chấp ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với bị đơn anh Lê Thành Ph đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh Ph vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần 03 không có lý do.
Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án theo quy định chung.
[2] Về nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Thanh H thì thấy rằng:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân:
Chị H và anh Ph kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam và đã được Ủy ban nhân dân Phường 4, thành phố Đà Lạt cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 13/4/2004. Quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh Ph là có trên thực tế và hai người đã có 03 con chung.
Tuy nhiên, theo chị H thì vợ chồng chỉ hạnh phúc một thời gian đến năm 2008 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, không có tiếng nói chung, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng hiện đang sống ly thân từ năm 2018, chị và các con chung ở tại số 21 THT, Phường x, thành phố Đà Lạt còn anh Ph ở nhà bố mẹ anh Ph tại số 18/64 ĐDT, Phường y, thành phố Đà Lạt.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Ph không có mặt tại phiên hòa giải cũng như phiên tòa, thể hiện thái độ bỏ mặc, không có thiện chí hàn gắn gia đình.
Tòa án đã tiến hành xác minh chính quyền địa phương ngày 18/4/2022 về mâu thuẫn hôn nhân của chị H và anh Ph thì chính quyền địa phương không nắm rõ vì chị H và anh Ph không báo lên chính quyền địa phương. Tuy nhiên, chị H và anh Ph không sống chung từ lâu. Việc nuôi dạy con chung của chị H là tốt.
Xét thấy, theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.
2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, … và lý do chính đáng khác”.
Theo chị H thì từ đầu năm 2018 đến nay anh Ph sống ở nhà bố mẹ của anh Ph còn chị và các con ở Phường x, thành phố Đà Lạt sinh sống. Từ đó đến nay anh Ph không đến thăm vợ con, không quan tâm, chăm sóc nhau, cũng không phụ giúp chị về kinh tế lo cho các con, người nào chỉ biết bổn phận người đó.
Hội đồng xét xử nhận thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh Ph đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không có, do đó chị H yêu cầu được ly hôn với anh anh Ph là có cơ sở chấp nhận.
[2.2] Về con chung:
Chị H xác nhận chị và anh Ph có 03 con chung là Lê Ngọc Bích H, sinh ngày 21/02/2004; Lê Ngọc Bích Ph, sinh ngày 05/7/2006; Lê Hoàng S, sinh ngày 07/5/2013. Hiện nay các con đang ở với chị; khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi các con chung.
Xét về nguyện vọng của con chung: Theo bản tự khai ngày 15/3/2022 của cháu Lê Hoàng S, sinh ngày 07/5/2013 (Bút lục số 30) và theo bản tự khai ngày 10/3/2022 của cháu Lê Ngọc Bích Ph, sinh ngày 05/7/2006 (Bút lục số 27) và cháu Lê Ngọc Bích H, sinh ngày 21/02/2004 thì cả 03 cháu đều có nguyện vọng được ở với “mẹ” là chị H.
Xét thấy, các con chung đã sống với chị H từ trước tới nay, chị H cũng có nguyện vọng được nuôi con chung, các con chung đều có nguyện vọng được sống với mẹ nên để đảm bảo sự phát triển ổn định mọi mặt của các con chung, Hội đồng xét xử cần giao hai con chung là Lê Ngọc Bích Ph, sinh ngày 05/7/2006; Lê Hoàng S, sinh ngày 07/5/2013 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp. Riêng cháu Lê Ngọc Bích H, sinh ngày 21/02/2004 đã trưởng thành, phát triển bình thường và chị Trương Thị Thanh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Chị H không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con; Quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để tuyên xử theo hướng nhận định nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Về án phí sơ thẩm:
Nguyên đơn chị Trương Thị Thanh H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 19, 55, 56, 57, 58 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trương Thị Thanh H về việc “Tranh chấp ly hôn” với đối với bị đơn anh Lê Thành Ph. Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn chị Trương Thị Thanh H và bị đơn anh Lê Thành Ph được ly hôn.
2. Về con chung: Giao con chung Lê Ngọc Bích Ph, sinh ngày 05/7/2006; Lê Hoàng S, sinh ngày 07/5/2013 cho chị Trương Thị Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con; Quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
3. Về án phí:
Chị Trương Thị Thanh H phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001557 ngày 25/02/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Trương Thị Thanh H có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Riêng anh Lê Thành Ph vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 - Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014”.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 39/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 39/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 04/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về