Bản án về tranh chấp ly hôn số 245/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 245/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 22 tháng 4 năm 2022 tại phòng xét xử trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 443/2021/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2021 về việc: Tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/QĐXX-ST ngày 30 tháng 3 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2022/QĐST-HNGĐ ngày 19/4/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn : Anh Đặng Ngọc L, sinh năm 1994

Trú tại: đội 1 đường V (nay là nhà 5 đường tiếp giáp dịch vụ V) tổ dân phố số 1, phường P, quận H, Hà Nội. Có mặt.

- Bị đơn: Chị Phạm Thúy H, sinh năm 1994 

Trú tại: đội 1 đường V (nay là nhà 5 đường tiếp giáp dịch vụ V) tổ dân phố số 1, phường P, quận H, Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn anh Đặng Ngọc L trình bày:

Anh và chị Phạm Thúy H chung sống với nhau từ năm 2016 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Phú La, quận Hà Đông, Hà Nội ngày 10/5/2016. Sau kết hôn anh chị sống tại nhà số 5, tổ dân phố 1, phường P, quận H, thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh L hay đi chơi rượu chè về muộn nên vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn cãi nhau và mâu thuẫn này vẫn thường xuyên tiếp diễn bởi vì anh L không còn tình cảm với chị H nữa. Sự việc trên anh L đã thông báo cho gia đình hai bên để hòa giải nhưng không có kết quả. Nay anh L xác định không còn tình cảm với chị H, còn mục đích hôn nhân không đạt được nên anh cương quyết đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Phạm Thúy H mặc dù anh biết chị H đang mang thai .

Về con chung: Anh L xác nhận anh và chị H có 02 con chung là Đặng Tú A (nữ), sinh ngày 06/11/2016 và Đặng Trường P (nam), sinh ngày 12/01/2020. Ly hôn anh đề nghị Tòa án giải quyết để chị H là người trực tiếp nuôi 02 con chung theo ý muốn của chị H và anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con là 5.000.000 đồng/tháng cho mỗi cháu (tổng cộng là 10.000.000 đồng/tháng), anh hiện đang làm lái xe, mức thu nhập bình quân của anh hàng tháng khoảng 25.000.000 đồng.

Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Anh L xác nhận anh và chị H không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ: Anh L xác nhận anh và chị H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Anh L đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

*Quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị đơn chị Phạm Thúy H trình bày:

Về tình cảm: Chị H xác nhận về thời gian kết hôn và địa chỉ chung sống của vợ chồng như anh L trình bày là đúng. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu hòa thuận hạnh phúc, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh L có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác bên ngoài, sự việc đã được gia đình hai bên hòa giải và đã hòa thuận trở lại nhưng thời gian gần đây anh L hay chơi bời nghe lời bạn bè rủ rê nên thường rượu chè và có hôm anh L còn sử dụng thuốc lắc và viên kẹo. Nay anh L kiên quyết xin ly hôn chị thì chị không đồng ý vì nếu chị đồng ý ly hôn thì anh L sẽ bị sa ngã, khổ con cái và chị đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con cái, hiện nay chị đang mang thai con thứ 3 được khoảng 19 tuần.

Về con chung: Chị H xác nhận chị và anh L có 02 con chung là Đặng Tú A (nữ), sinh ngày 06/11/2016 và Đặng Trường P (nam), sinh ngày 12/01/2020. Trường hợp phải ly hôn thì chị đề nghị Tòa án giải quyết để chị là người trực tiếp nuôi 02 con chung và chị đồng ý với sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung của anh L là 5.000.000 đồng/tháng cho mỗi cháu (tổng cộng là 10.000.000 đồng/tháng) .

Về tài sản chung (gồm động sản và bất động sản): Chị H xác nhận chị và anh L không có tài sản chung, chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về nợ chung: Chị H xác nhận chị và anh L tự thỏa thuận, chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về án phí: Chị đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm anh L giữ nguyên các yêu cầu nêu trên và không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề gì khác. Chị H giữ nguyên ý kiến đã trình bầy tại Tòa, chị không đồng ý ly hôn và đề nghị Tòa án hòa giải để anh chị về đoàn tụ với nhau vì hiện nay chị đang mang thai con thứ 3, chị không có yêu cầu gì khác.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án ngày hôm nay Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành tố tụng theo đúng các trình tự thủ tục mà bộ luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn chấp hành các quy định của pháp luật. Tòa án đã vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Sau khi phát biểu đánh giá các tình tiết của vụ án. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đặng Ngọc L đối với chị Phạm Thúy H. Về con chung, tài sản chung và công nợ: Do không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh L nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Anh L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, bị đơn là chị Phạm Thúy H. Chị H có cư trú tại địa chỉ: đội 1 đường V (nay là nhà 5 đường tiếp giáp dịch vụ V) tổ dân phố số 1, phường P, quận H, Hà Nội. Nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân quận Hà Đông thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Về nội dung:

[1].Về quan hệ hôn nhân: Anh Đặng Ngọc L và chị Phạm Thúy H chung sống với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn UBND phường Phú La, quận Hà Đông, Hà Nội ngày 10/5/2016. Hôn nhân của anh L và chị H là hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở xác định anh L và chị H chung sống với nhau có mâu thuẫn, nguyên nhân do anh L hay đi chơi rượu chè về muộn nên vợ chồng hay xảy ra mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên cả anh L và chị H đều xác nhận chị H đang mang thai, theo kết quả siêu âm 4D do chị H xuất trình ngày 10/3/2022 đã kết luận chị H đang mang thai 14 tuần 2 ngày và chị H không đồng ý ly hôn nên căn cứ khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân gia đình không có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh L đối với chị H.

[2]. Về con chung: Anh Đặng Ngọc L và chị Phạm Thúy H xác nhận có 02 con chung là Đặng Tú A (nữ), sinh ngày 06/11/2016 và Đặng Trường P (nam), sinh ngày 12/01/2020. Do yêu cầu xin ly hôn của anh L không được chấp nhận nên Hội đồng xét xử không xem xét về con chung.

[3]. Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Anh Đặng Ngọc L và chị Phạm Thúy H xác nhận anh chị không có tài sản chung, do yêu cầu xin ly hôn của anh L không được chấp nhận nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về nợ: Anh Đặng Ngọc L và chị Phạm Thúy H xác nhận anh chị tự thỏa thuận, do yêu cầu xin ly hôn của anh L không được chấp nhận nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Anh Đặng Ngọc L phải chịu 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông phát biểu và đề xuất hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Từ nhận định trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình, Luật số 52/2014/QH13 ngày 19/6/2014.

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 146; 147; Điều 207; khoản 2 Điều 227; các Điều 271; 273; 278; 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1.Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đặng Ngọc L đối với chị Phạm Thúy H.

2.Về con chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung (gồm động sản và bất động sản): Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về nợ: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Anh Đặng Ngọc L phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Anh L đã nộp 300.000 đồng án phí tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0009327 ngày 05/10/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt anh L và chị H. Anh L và chị H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 245/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:245/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về