TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 231/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 19 tháng 4 năm 2022 tại phòng xét xử trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 330/2021/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2021 về việc: Tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXX-ST ngày 15 tháng 3 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 21/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1978
Đăng ký HKTT và cư trú: Phòng 312 nhà TX 92A TT đường H, phường N, quận T, Hà Nội. Có mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Trung Đ, sinh năm 1978
Nơi ĐKHKTT: Phòng 312 nhà TX 92A TT đường H, phường N, quận T, Hà Nội.
Hiện trú tại: địa chỉ Phòng 12A05 tòa T khu đô thị A, phường L, quận H, Hà Nội. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày: Chị và anh Nguyễn Trung Đ chung sống với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Trường Thi, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An chứng nhận kết hôn ngày 03 tháng 7 năm 2006. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống tại Phòng 312 nhà TX 92A TT đường H, phường N, quận T, Hà Nội, đến năm 2020 anh Đ chuyển về sống tại Phòng 12A05 tòa T khu đô thị A, phường L, quận H, Hà Nội. Quá trình chung sống vợ chồng đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do sự khác biệt ngày càng nhiều về quan điểm và tư tưởng sống. Anh Đ là người gia trưởng và cầu toàn, chị là người mang tính tương đối, anh Đ sống khép kín ít giao thiệp đặc biệt với họ hàng và bạn bè chị. Vì vậy, giữa chị và anh Đ không có tiếng nói chung và chị không chia sẻ được với anh, dần dần chị bị cô lập, mất cảm xúc, mất tình cảm và chị thấy không thể tiếp tục chung sống được với anh Đ. Do mâu thuẫn căng thẳng nên chị và anh Đ đã sống ly thân nhau mỗi người một nơi từ tháng 2/2020 cho tới nay. Mâu thuẫn của chị và anh Đ đã được bạn bè và gia đình trao đổi hòa giải nhưng tình cảm của chị và anh Đ không có kết quả như mong muốn. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Trung Đ.
Về con chung: Chị L xác nhận chị và anh Đ có 02 con chung là Nguyễn Bảo M (nữ), sinh ngày 08/11/2006 và Nguyễn Bảo N (nữ), sinh ngày 04/02/2014. Cháu Nguyễn Bảo M hiện đang ở với anh Đ, cháu Nguyễn Bảo N hiện đang ở với chị, để tránh tâm lý các cháu bị ảnh hưởng chị đề nghị Tòa án giải quyết để anh Đ nuôi cháu M và chị nuôi cháu N, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Hiện nay chị L đang làm biên tập viên, tổng thu nhập của chị hàng tháng khoảng 20.000.000 đồng, anh Đ làm giảng viên tổng thu nhập hàng tháng khoảng 15.000.000 đồng.
Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị L xác nhận tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ: Chị L xác nhận vợ chồng không nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí: Chị L đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Nguyễn Trung Đ, nhưng anh Đ không đến Tòa án để thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Do anh Đ không đến Tòa nên Tòa án không tiến hành lấy được lời khai của anh Đ cũng như không hòa giải cho anh, chị đoàn tụ được.
Tại phiên tòa sơ thẩm chị L giữ nguyên các yêu cầu nêu trên và không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề gì khác.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án ngày hôm nay Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành tố tụng theo đúng các trình tự thủ tục mà bộ luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật. Tòa án đã vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Sau khi phát biểu đánh giá các tình tiết của vụ án. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị L đối với anh Nguyễn Trung Đ. Về con chung: Xác nhận chị L và anh Đ có 02 con chung là Nguyễn Bảo M (nữ), sinh ngày 08/11/2006 và Nguyễn Bảo N (nữ), sinh ngày 04/02/2014, giao cho anh Đ là người trực tiếp nuôi cháu M, giao cho chị L là người trực tiếp nuôi cháu N, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Về tài sản chung, công nợ: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
Về án phí: Chị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về thủ tục tố tụng: Quá trình Tòa án tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án triệu tập anh Nguyễn Trung Đ đến Tòa để giải quyết vụ án, nhưng anh Đ không đến Tòa. Tại phiên tòa hôm nay anh Đ đã được Tòa án tống đạt quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa, thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng tại phiên tòa nhưng anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 207 và khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành giải quyết và xét xử vụ án vắng mặt anh Đ.
Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, bị đơn là anh Nguyễn Trung Đ. Anh Đ có cư trú tại địa chỉ: Phòng 12A05 tòa T khu đô thị A, phường L, quận H, Hà Nội. Nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân quận Hà Đông thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
Về nội dung:
[1].Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị L và anh Nguyễn Trung Đ chung sống với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Trường Thi, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An chứng nhận kết hôn ngày 03 tháng 7 năm 2006. Hôn nhân của chị L và anh Đ là hôn nhân hợp pháp.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở xác định hiện nay chị L và anh Đ không chung sống cùng nhau, hơn nữa trong quá trình giải quyết vụ án anh Đ đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh Đ không đến Tòa án để thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Vì vậy Tòa án không thể tiến hành hòa giải cho chị L, anh Đ đoàn tụ được. Việc anh Đ không đến Tòa án để tham gia hòa giải thể hiện anh Đ không có mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, vì vậy việc chị L xin ly hôn anh Đ là có căn cứ chấp nhận và phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[2]. Về con chung: Chị Trần Thị L xác nhận chị và anh Đ có 02 con chung là Nguyễn Bảo M (nữ), sinh ngày 08/11/2006 và Nguyễn Bảo N (nữ), sinh ngày 04/02/2014. Ly hôn để tránh tâm lý các cháu bị ảnh hưởng chị L đề nghị Tòa án giải quyết để chị là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung cháu N, anh Đ là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu M vì hiện nay cháu M đang ở với anh Đ và cháu N đang ở với chị. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.
Xét đề nghị của chị L Hội đồng xét xử thấy: Tại đơn đề nghị của cháu Nguyễn Bảo M, cháu M có nguyện vọng nếu chị L và anh Đ ly hôn thì cháu mong muốn được ở với anh Đ, tại đơn đề nghị của cháu Nguyễn Bảo N thì cháu N có nguyện vọng nếu chị L và anh Đ ly hôn thì cháu mong muốn được ở với chị L và thực tế cháu M đang ở với anh Đ, cháu N đang ở với chị L, hai cháu khỏe mạnh phát triển bình thường. Do vậy để đảm bảo cuộc sống cho 02 cháu cần chấp nhận yêu cầu của chị L, giao cho chị L là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu N, giao cho anh Đ là người trực tiếp nuôi cháu M là phù hợp với quy định Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.
[3]. Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị Trần Thị L xác nhận vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này anh Đ chứng minh vợ chồng có tài sản chung và có yêu cầu Tòa án giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.
[4]. Về nợ: Chị Trần Thị L xác nhận vợ chồng không nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này anh Đ chứng minh vợ chồng có vay nợ chung và có yêu cầu Tòa án giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.
[5]. Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm .
Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông phát biểu và đề xuất hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.
Từ nhận định trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, Luật số 52/2014/QH13 ngày 19/6/2014.
Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 146; 147; Điều 207; khoản 2 Điều 227; các Điều 271; 273; 278; 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1.Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị L đối với anh Nguyễn Trung Đ.
Chị Trần Thị L được ly hôn đối với anh Nguyễn Trung Đ.
2.Về con chung: Xác nhận chị Trần Thị L và anh Nguyễn Trung Đ có 02 con chung là Nguyễn Bảo M (nữ), sinh ngày 08/11/2006 và Nguyễn Bảo N (nữ), sinh ngày 04/02/2014. Giao cho chị L là người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu N, giao cho anh Đ là người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu M, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau kể từ khi ly hôn cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định khác thay thế.
Chị L, anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung (gồm động sản và bất động sản): Chị Trần Thị L xác nhận vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này anh Đ chứng minh vợ chồng có tài sản chung và có yêu cầu giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.
4. Về nợ: Chị L xác nhận vợ chồng không nợ ai, không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này anh Đ chứng minh vợ chồng có vay nợ chung và có yêu cầu giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác
5. Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị L đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0000989 ngày 12/01/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Xuân.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị L, vắng mặt anh Đ. Chị L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đ được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 231/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 231/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 19/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về