Bản án về tranh chấp ly hôn số 1148/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1148/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 29 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 437/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 281/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 309/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm 1982 Địa chỉ: Số 32A, đường số 89, Tổ 1, ấp CD, xã TPT, huyện CC, Thành phố HCM. (Có mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1970 Địa chỉ: Hẽm 171/6, Tổ 6, ấp H, xã TTH, huyện CC, Thành phố HCM. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ghi ngày 20 tháng 02 năm 2022, tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc A trình bày như sau:

Bà và ông Kh có tìm hiểu nhau vào năm 2002. Đến năm 2003, cả hai tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện tại Ủy ban nhân dân xã Phú Tân, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai theo giấy chứng nhận kết hôn số 06, Quyển số 0I ngày 25/3/2003. Thời gian đầu, vợ chồng sống hạnh phúc. Vào năm 2019, vợ chồng bà không còn hạnh phúc nữa, do tính cách không hòa hợp, thường xuyên cãi vã nhau. Vợ chồng không trao đổi trong suốt thời gian dài. Từ đó tình cảm vợ chồng của bà dần nhạt phai. Đầu năm 2021, ông Kh rời nhà chuyển đến sinh sống tại xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi Bà và ông Kh đã sống ly thân từ đầu năm 2021 cho đến nay và không còn liên lạc với nhau. Bà nhận thấy cuộc hôn nhân không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, bà xin ly hôn với ông Kh.

Về con chung: Bà và ông Kh có 01 con chung tên Nguyễn Văn Ng, sinh ngày 09/11/2005. Bà hiện đang đi làm, công việc ổn định, thu nhập hàng tháng khoảng 9.000.000đ (Chín triệu đồng). Bà xin trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu ông Kh cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Bà xác định không có.

Về nợ chung: Bà xác định không có.

Bị đơn ông Nguyễn Văn Kh đã được Toà án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ 02 mà vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Căn cứ đơn xin ly hôn ghi ngày 20 tháng 02 năm 2022, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết là tranh chấp ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Bị đơn ông Nguyễn Văn Kh có nơi cư trú tại Hẽm 171/6, Tổ 6, ấp H, xã TTH, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Củ Chi.

Tòa án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, tiến hành triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Anh:

Bà Nguyễn Thị Ngọc A và ông Nguyễn Văn Kh tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân vào năm 2003, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Tân, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai theo giấy chứng nhận kết hôn số 06, Quyển số 0I ngày 25/3/2003, nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét mâu thuẫn phát sinh: Bà A trình bày, sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc. Vào năm 2019, vợ chồng bà không còn hạnh phúc nữa, do tính cách không hòa hợp, thường xuyên cãi vã nhau, vợ chồng không trao đổi trong suốt thời gian dài. Từ đó tình cảm vợ chồng của bà dần nhạt phai. Đến năm 2021, ông Kh và bà sống ly thân từ thời gian đó cho đến nay. Bà nhận thấy cuộc hôn nhân không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, bà xin ly hôn với ông Kh.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để tạo điều kiện cho các đương sự hàn gắn tình cảm, đồng thời giải quyết các mâu thuẫn phát sinh. Tuy nhiên, bị đơn ông Kh vắng mặt, không gửi văn bản trình bày ý kiến của ông đối với vụ kiện. Qua đó đã thể hiện ông Kh không có nguyện vọng đoàn tụ và hàn gắn quan hệ vợ chồng. Đồng thời, bà A xác định bà và ông Kh đã sống ly thân, không còn ở cùng nhà từ đầu năm 2021 cho đến nay. Xét thấy, bà A và ông Kh không còn tạo điều kiện cho nhau để thực hiện quyền, nghĩa vụ vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn kéo dài, đời sống chung trên thực tế không còn tồn tại. Do vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở.

[3]. Về con chung: Bà Anh và ông Kh có 01 con chung tên Nguyễn Văn Ng, sinh ngày 09/11/2005. Bà Anh xin trực tiếp nuôi con chung. Bà A có công việc ổn định, thu nhập hàng tháng khoảng 9.000.000đ (Chín triệu đồng). Do ông Kh vắng mặt nên không thể hiện ý kiến của ông Kh đối với con chung. Qua tham khảo ý kiến của cháu Ng, cháu Ng có nguyện vọng sinh sống cùng bà A. Nhằm tạo điều kiện để cháu Ng phát triển bình thường cũng như đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu Ng, sau khi xem xét về điều kiện để nuôi con của bà A, Hội đồng xét xử xét căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu Ng cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà A không yêu cầu ông Kh cấp dưỡng nuôi con chung. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà A không yêu cầu ông Kh cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 và khoản 2 Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng con chung.

Ông Kh có quyền, nghĩa vụ thăm nom, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

[5]. Về tài sản chung: Bà A xác định không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Bà A xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét là phù hợp. Tuy nhiên, do bị đơn ông Kh vắng mặt tại phiên tòa, nếu ông Kh có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được giải quyết bằng vụ kiện khác.

[6]. Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; buộc nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo quy định là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117, 118, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

1. Về quan hệ hôn nhân:

Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Ngọc A và ông Nguyễn Văn Kh.

2. Về con chung:

Giao bà Anh được trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Văn Ng, sinh ngày 09/11/2005. Ghi nhận sự tự nguyện của bà A không yêu cầu ông Kh cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 và khoản 2 Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng con chung.

Ông Kh có quyền, nghĩa vụ thăm nom, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà A xác định không có, không yêu cầu giải quyết. Do ông Kh vắng mặt, nếu ông Kh có tranh chấp về tài sản chung, nợ chung sẽ được giải quyết bằng vụ kiện khác.

4. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) bà A phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà A đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0044139 ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ Chi. Bà A đã nộp đủ tiền án phí.

5. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 1148/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:1148/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về