Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 34/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 34/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

o ngày 19-01-2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 606/2020/TLST-HNGĐ ngày 24-11-2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04-01- 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Ngân H, sinh năm 1991; số chứng minh nhân dân: XXXXXXXXX; đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường P, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đường X, phường P, thành phố N, tỉnh Nam Định. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Toàn T, sinh năm 1986; số căn cước công dân: XXXXXXXXX ; đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường P, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đường T, phường Y, thành phố N, tỉnh Nam Định. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện nộp ngày 24-11-2020 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là chị Lê Ngân H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Toàn T có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 2 năm, sau đó đã tổ chức lễ cưới trên cơ sở tự nguyện vào ngày 24-3-2014. Hai bên có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Hạ Long, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định vào ngày 21-3-2014.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng gia đình anh Nguyễn Toàn T tại địa chỉ: Đường P, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định. Đến năm 2017 thì vợ chồng được bố mẹ anh T mua cho căn nhà tại địa chỉ: Đường T, phường Y, thành phố N, tỉnh Nam Định nên đã ra ở riêng. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2017 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, hai bên không có thái độ tôn trọng nhau. Vợ chồng cũng đã nhiều lần xảy ra cãi nhau. Tình trạng mâu thuẫn của vợ chồng kéo dài như vậy trong khoảng hai năm. Trong thời gian đó hai bên cũng đã cố gắng hàn gắn, gia đình cũng đã hòa giải nhiều lần nhưng vợ chồng không khắc phục được mâu thuẫn. Từ khoảng tháng 11/2019 chị đã đi ở nhờ nhà người quen, vợ chồng sống ly thân từ thời gian đó cho đến nay. Hiện tại, chị Lê Ngân H xác định mâu thuẫn giữa chị và anh Nguyễn Toàn T đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Toàn T có 01 con chung là con trai, tên là Nguyễn Minh Q, sinh ngày 22-3-2015. Hiện tại ban ngày con chung do anh T và bố mẹ anh T chăm sóc và đưa đón đi học, đến tối thì chị đón con về ngủ cùng.

Nếu ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con và yêu cầu anh Nguyễn Toàn T cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Trường hợp anh T được nuôi con, chị sẽ tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng.

i sản chung và nghĩa vụ của vợ chồng: Chị Lê Ngân H trình bày không có gì và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tại bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng, bị đơn là anh Nguyễn Toàn T trình bày:

Anh và chị Lê Ngân H tổ chức lễ cưới trên cơ sở tự nguyện vào ngày 24- 3-2014, có thời gian tìm hiểu nhau trước khoảng 3 năm. Hai bên có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Hạ Long, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định vào ngày 21-3-2014.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng gia đình anh tại địa chỉ: Đường P, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định. Đến năm 2017 thì vợ chồng sống riêng tại địa chỉ: Đường T, phường Y, thành phố N, tỉnh Nam Định. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2018 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Bản thân hai bên cũng đã cố gắng hàn gắn, gia đình cũng đã hòa giải nhưng vợ chồng không khắc phục được mâu thuẫn. Từ khoảng tháng 11/2019 chị H đã đưa con đến nhà người quen để ở nhờ, vợ chồng đã sống ly thân từ thời gian đó cho đến nay. Hiện tại, anh Nguyễn Toàn T xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn và đồng ý ly hôn chị Lê Ngân H.

Về con chung: Anh và chị Lê Ngân H có 01 con chung là con trai, tên là Nguyễn Minh Q, sinh ngày 22-3-2015. Hiện con chung ban ngày thì do ông bà nội chăm sóc, buổi tối thì về ở cùng với chị H.

Nếu ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị Lê Ngân H cấp dưỡng nuôi con. Việc chị H cấp dưỡng nuôi con là do tự nguyện. Anh cam đoan sẽ tạo điều kiện cho chị H thăm hỏi, chăm sóc con chung.

i sản chung và nghĩa vụ của vợ chồng: Anh Nguyễn Toàn T trình bày không có gì và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định tham gia phiên tòa có quan điểm:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Giai đoạn chuẩn bị xét xử và phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung tranh chấp, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn T.

- Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Giao cho chị Lê Ngân H trực tiếp nuôi con Nguyễn Minh Q, sinh ngày 22-3- 2015. Buộc anh Nguyễn Toàn T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 01/2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

- Buộc các đương sự phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tranh chấp được giải quyết trong vụ án:

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là chị Lê Ngân H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Nguyễn Toàn T, giải quyết việc nuôi con sau khi ly hôn, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nghĩa vụ chung của vợ chồng. Bị đơn là anh Nguyễn Toàn T không có yêu cầu phản tố. Do vậy quan hệ tranh chấp trong vụ án được xác định là ly hôn, tranh chấp nuôi con.

[2] Về nội dung tranh chấp trong vụ án:

2.1. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn T có thời gian tìm hiểu nhau trước và tổ chức lễ cưới trên cơ sở tự nguyện vào ngày 24-3-2014, hai bên có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Hạ Long, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định vào ngày 21-3-2014. Như vậy hôn nhân giữa chị H và anh T là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chị H và anh T chung sống cùng với gia đình anh T tại địa chỉ: Đường P, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định. Đến năm 2017 thì vợ chồng sống riêng tại địa chỉ: Đường T, phường Y, thành phố N, tỉnh Nam Định. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc cho đến khoảng năm 2018 thì bắt đầu có mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai bên thường xuyên xảy ra bất đồng quan điểm sống. Mặc dù vợ chồng đã tìm biện pháp khắc phục mâu thuẫn, gia đình hai bên cũng đã hòa giải nhưng không có kết quả. Vì vậy vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 11/2019 cho đến nay. Hiện tại cả chị H và anh T đều đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh T ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không còn trên thực tế, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ áp dụng điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn T.

2.2. Về người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:

Chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn T có 01 con chung là con trai, tên là Nguyễn Minh Q, sinh ngày 22-3-2015. Sau khi ly hôn, cả chị H và anh T đều có yêu cầu được trực tiếp nuôi con. Hội đồng xét xử thấy rằng mặc dù cả hai bên đều có công việc và thu nhập ổn định, từ trước đến nay anh T đã có điều kiện về chỗ ở và được gia đình hỗ trợ việc chăm sóc con. Tại phiên tòa, chị H có xuất trình hợp đồng tặng cho nhà đất, theo đó chị H được tặng cho nhà đất tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Tuy nhiên hiện tại cháu Nguyễn Minh Q đang học tập, sinh hoạt ổn định tại thành phố Nam Định, chị H cũng đang sinh sống và làm việc tại thành phố Nam Định. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ giao cho anh T trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

Sau khi ly hôn, chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn T vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ đối với con chung.

2.3. Về cấp dưỡng nuôi con:

Do anh Nguyễn Toàn T trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn nên chị Lê Ngân H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Xét chi phí thực tế hợp lý cho việc nuôi con và đề nghị của chị H về cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử sẽ buộc chị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng, kể từ tháng 01/2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

2.4. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung của vợ chồng:

Chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn T đều xác định vợ chồng không có tài sản chung và nghĩa vụ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí:

n cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV thì án phí trong vụ án sẽ được quyết định như sau:

Chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn T thuận tình ly hôn nên mỗi bên phải nộp 1/2 án phí ly hôn sơ thẩm. Cụ thể mỗi người phải nộp 300.000 đồng x 50% x 1/2 = 75.000 đồng.

Chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn T đã thỏa thuận về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên chị H phải nộp án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng x 50% = 150.000 đồng.

Số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm chị Lê Ngân H đã nộp khi khởi kiện sẽ được khấu trừ vào án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.

1. Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn T.

2. Con chung:

Giao cho anh Nguyễn Toàn T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Minh Q, sinh ngày 22 tháng 3 năm 2015.

Cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Ngân H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con Nguyễn Minh Q là 2.000.000 đồng/tháng (hai triệu đồng/tháng), kể từ tháng 01/2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn T vẫn có đầy đủ quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên theo quy định của pháp luật. Không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom con. Người không trực tiếp nuôi con không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Án phí:

Chị Lê Ngân H phải nộp 75.000 đồng (bảy mươi lăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Lê Ngân H đã nộp tại biên lai số 0003386 ngày 24-11-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định. Trả lại cho chị Lê Ngân H 75.000 đồng (bảy mươi lăm nghìn đồng).

Anh Nguyễn Toàn T phải nộp 75.000 đồng (bảy mươi lăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn T có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì chị Lê Ngân H và anh Nguyễn Toàn Thăng có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 34/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:34/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về