TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 313/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 30 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 86/2021/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021 về “tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 183/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/6/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 133/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28/6/2021 và Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa số 1040/TB-TA ngày 13/7/2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm 1983, địa chỉ cư trú: khóm H, thị trấn VTT (trước đây là ấp H, xã VTT), huyện P, tỉnh An Giang. Địa chỉ liên hệ: ấp B2, xã BM, huyện P, tỉnh An Giang (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Ông Lê Từ T, sinh năm 1978, địa chỉ cư trú: khóm H, thị trấn VTT (trước đây là ấp H, xã VTT), huyện P, tỉnh An Giang (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ D trình bày như sau:
Về hôn nhân: Bà D và ông Lê Từ T do mai mối, quen nhau rồi tự nguyện kết hôn vào năm 1999, sau đó ông bà mới đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn C, huyện P, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 26, quyển số 01, cấp ngày 13/8/2001. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, về sau vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cự cãi nhiều lần. Đến tháng 12/2019, bà và ông T quyết định sống ly thân với nhau đến nay. Nhận thấy cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc và không thể hàn gắn được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông T. Khi thực hiện thủ tục ly hôn, bà có điện thoại báo cho ông T biết về việc Tòa án mời giải quyết nhưng ông T cho rằng ông đồng ý ly hôn nhưng không đến Tòa án làm việc, tùy bà yêu cầu giải quyết ly hôn đơn phương.
Về con chung: Bà D khai vợ chồng có hai con chung là cháu Lê Công F, sinh ngày 25/5/2001 và cháu Lê Từ Thiện F2, sinh ngày 25/3/2018, hiện hai con đang sống cùng với bà D. Khi ly hôn, bà D yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu F2, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng cháu F đã thành niên và có khả năng lao động được nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn ông Lê Từ T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không gửi văn bản trình bày ý kiến cho Tòa án về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Toà án đã tiến hành xác minh tình trạng cư trú của ông T thì được biết, hiện ông T vẫn còn đăng ký thường trú tại địa phương xã VTT (nay là thị trấn VTT), chưa chuyển hộ khẩu đi nơi khác, nhưng ông T đi đâu không rõ, ít có mặt tại địa phương. Về tình trạng hôn nhân giữa ông T và bà D thì Ban ấp không nắm rõ do ông, bà không trình báo.
* Tại phiên tòa:
- Bà D và ông T vắng mặt, riêng bà D có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P phát biểu ý kiến:
+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đối với người tham gia tố tụng, nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Riêng bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 56, 58, 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D, cho bà D được ly hôn với ông T; Giao cháu F2 cho bà D được trực tiếp nuôi dưỡng, do bà D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị không xem xét. Riêng cháu F đã thành niên và có khả năng lao động được nên đề nghị không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: Bà D không yêu cầu nên đề nghị không xem xét, giải quyết. Về án phí sơ thẩm: Đề nghị xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền giải quyết:
Bà Nguyễn Thị Mỹ D khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết về con chung đối với bị đơn ông Lê Từ T nên xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là "tranh chấp ly hôn, nuôi con". Ông T có địa chỉ thường trú tại xã VTT, huyện P, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[1.2] Về sự có mặt, vắng mặt của đương sự:
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà D vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông T vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng theo quy định.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về hôn nhân: Bà D và ông T tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn C, huyện P, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 26, quyển số 01, cấp ngày 13/8/2001 là phù hợp theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên xét hôn nhân giữa bà D và ông T là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Xét yêu cầu ly hôn của bà D, Hội đồng xét xử nhận thấy, khi còn chung sống với nhau, giữa bà và ông T đã không thấu hiểu, quan tâm, tôn trọng nhau, thường hay cự cãi với nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, ông bà cũng đã ly thân một thời gian dài nhưng vẫn không tự tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông T vẫn vắng mặt, không gửi văn bản trình bày ý kiến về vụ án, cho thấy ông T đã tự từ bỏ quyền lợi của mình, không quan tâm đến cuộc sống hôn nhân với bà D. Bà D cũng có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải tiếp, cương quyết yêu cầu ly hôn với ông T, cho thấy bà không muốn tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân với ông T.
Từ những phân tích trên, xét thấy hôn nhân giữa bà D và ông T đã thật sự lâm vào trình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D, cho bà D được ly hôn với ông T là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P.
[2.2] Về con chung:
Bà D, ông T có hai con chung là cháu Lê Công F, sinh ngày 25/5/2001 và cháu Lê Từ T F2, sinh ngày 25/3/2018, hiện hai con đang sống cùng với bà D. Xét thấy, cháu F đã thành niên và có khả năng lao động được nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Riêng cháu F2 từ khi ly thân đến nay, đều do bà D nuôi dưỡng, chăm sóc. Khi ly hôn, bà D có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu F2. Do đó, để đảm bảo về sự phát triển mọi mặt của con chung, tạo điều kiện cho cháu F2 được ổn định về tâm sinh lý, chổ ở, sinh hoạt và học tập, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu F2 cho bà D được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 58, 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do bà D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
Về quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật:
Căn cứ vào Điều 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, ông T là người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng có quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung. Bà D và các thành viên trong gia đình không được cản trở ông T đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung. Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Do bà D không yêu cầu giải quyết, ông T vắng mặt, không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
Trường hợp sau này, ông T có tranh chấp về mối quan hệ tài sản chung và nợ chung thì có quyền yêu cầu giải quyết trong vụ án khác.
[3] Về án phí: Do bà D là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên bà D phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Căn cứ vào Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ D.
- Về hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị Mỹ D được ly hôn với ông Lê Từ T.
Giấy chứng nhận kết hôn số 26, quyển số 01 do Uỷ ban nhân dân thị trấn C, huyện P, tỉnh An Giang cấp ngày 13/8/2001 cho bà Nguyễn Thị Mỹ D và ông Lê Từ T không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.
- Về con chung:
Cháu Lê Công F, sinh ngày 25/5/2001 đã thành niên và có khả năng lao động được nên không xem xét, giải quyết.
Giao cháu Lê Từ T F2, sinh ngày 25/3/2018 cho bà Nguyễn Thị Mỹ D được trực tiếp nuôi dưỡng (hiện cháu F2 đang sống với bà D).
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét, giải quyết.
Bà Nguyễn Thị Mỹ D và các thành viên trong gia đình không được cản trở ông Lê Từ T đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung.
Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một bên, các bên hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi về cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.
- Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Mỹ D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà bà D đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số TU/2019/0008722 ngày 03 tháng 03 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P nên bà D không phải nộp thêm.
- Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Mỹ D, ông Lê Từ T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 313/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 313/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về