Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 20/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại Hội trường xét xử 2 - Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 21/2022/TLST - HNGĐ ngày 24/3/2022 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/QĐXX-ST ngày 13/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 12/2022/QĐST - HNGĐ ngày 13/6/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Trần Thị Bích P, sinh năm 19xx.

Nơi cư trú: tổ x, khu x, phường H, thành phố P, tỉnh N. Vắng mặt (có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).

2. Bị đơn: anh Ngô Quốc K, sinh năm 19xx.

Nơi cư trú: tổ x, khu x, phường H, thành phố P, tỉnh N. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 02/3/2022, lời tự khai và đơn xin vắng mặt tại phiên tòa chị Trần Thị Bích P trình bày: Chị Trần Thị Bích P và anh Ngô Quốc K kết hôn vào năm 2013, có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân phường H. Sau khi kết hôn, chị P và anh K chung sống cùng gia đình nhà chồng tại tổ x, khu x, phường H, thành phố P, tỉnh N. Cuộc sống chung vợ chồng bình thường khoảng 08 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh K có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, chị P không thể chịu đựng được nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mặc dù chị P và gia đình đã khuyên can nhiều lần nhưng anh K không thể từ bỏ được người phụ nữ đó. Vì thương con nên chị P đã rộng lượng bỏ qua, động viên anh K chấm dứt quan hệ ngoại tình để vợ chồng về đoàn tụ nhưng anh K không nghe, không dành tình cảm cho chị P. Từ tháng x/20xx chị P đã thuê nhà ở riêng, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Chị P xác định mẫu thuẫn vợ chồng quá căng thẳng, trầm trọng không thể khắc phục được nên kiên quyết xin ly hôn với anh Ngô Quốc K.

Chị Trần Thị Bích P và anh Ngô Quốc K có một con chung là Ngô Minh T, sinh ngày xx/xx/20xx. Từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay, chị P là người nuôi con, anh K không có trách nhiệm với con. Vì vậy khi ly hôn, chị P xin trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu anh K cấp dưỡng cho con. Chị P là giáo viên và làm kinh doanh, thu nhập khoảng 8.000.000 đến 10.000.000 đồng/tháng nên đảm bảo nuôi dạy con chung tốt.

Tài sản chung: Chị P và anh K tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung không có.

Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn anh Ngô Quốc K nhiều lần nhưng anh K cố tình vắng mặt nên không lấy được lời khai của anh K, anh K không có quan điểm gì về quan hệ hôn nhân cũng như tài sản và nợ chung.

Biên bản xác minh ngày 06/5/2021 nơi chị P và anh K chung sống, tại khu 2, phường H và theo lời khai của ông Ngô Đức D - bố của anhNgô Quốc K được biết vợ chồng chị P, anh K do mâu thuẫn nên đã sống ly thân mỗi người một nơi và không dành tình cảm cho nhau.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng qui định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự. Xác định đúng quan hệ tranh chấp và áp dụng các quy định của pháp luật giải quyết vụ án chính xác. Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa, căn cứ Điều 56, khoản 2 Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về ly hôn và nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Trần Thị Bích P yêu cầu xin ly hôn với anh Ngô Quốc K hiện cư trú trên địa bàn thành phố Cẩm Phả nên Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả thụ lý giải quyết với quan hệ pháp luật tranh chấp ly hôn, nuôi con là đúng quy định tại các Điều 28, 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Ngô Quốc K được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý, chị Trần Thị Bích P là nguyên đơn có đơn xin xử án vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: chị Trần Thị Bích P và anh Ngô Quốc K kết hôn năm 2013 tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hòa thuận được 08 năm sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh K có quan hệ ngoại tình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Chị P đã bỏ qua, động viên khuyên can nhưng anh K không sửa đổi. Từ tháng x/20xx cho đến nay, vợ chồng chị P, anh K sống ly thân, không dành tình cảm cho nhau. Lời khai của chị P về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn cơ bản phù hợp với kết quả thu thập chứng cứ về tình trạng hôn nhân giữa chị P và anh K tại nơi cư trú. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị P, anh K đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị P đối với anh K.

[3] Về con chung: chị Trần Thị Bích P và anh Ngô Quốc K có một con chung là Ngô Minh T, sinh ngày xx/xx/20xx. Con chung có quan điểm được ở với chị P và chị P có nguyện vọng trực tiếp được nuôi con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng cho con. Anh K không có quan điểm về con chung. Mặc khác chị P có công việc, thu nhập trung bình khoảng 8.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Do đó giao con chung cho chị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp, anh K không phải cấp dưỡng cho con.

[4] Về tài sản chung: Chị P và anh K tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, vay nợ chung không có nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[5] Về án phí: chị Trần Thị Bích P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: chị Trần Thị Bích P và anh Ngô Quốc K có quyền kháng cáo bản án theo qui định tại các Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 228, Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Trần Thị Bích P.

1. Về hôn nhân: chị Trần Thị Bích P được ly hôn anh Ngô Quốc K.

2. Về con chung: Giao chị Trần Thị Bích P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Ngô Minh T, sinh ngày xx/xx/20xx cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Ngô Quốc K không phải cấp dưỡng cho con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: chị Trần Thị Bích P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng chị P đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005xxx ngày xx/x/20xx của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Chị P đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Trần Thị Bích P, bị đơn anh Ngô Quốc K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về