Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 122/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 122/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 26 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 212/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2022 về việc “tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 176/2022/QĐST- HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phan Thị H, sinh năm 1989; địa chỉ: số 422, Tổ 09, ấp KB 2, xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang; địa chỉ liên hệ: ấp MT, xã MHĐ, huyện CM, tỉnh An Giang; có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1988; địa chỉ: số 422, Tổ 09, ấp KB 2, xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phan Thị H trình bày, giữa bà và ông Trần Văn Dức do mai mối, sống chung với nhau như vợ cH từ năm 2006, đến năm 2015 mới thực hiện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã KA, huyện CM, hai vợ chồng chung sống đến năm 2019 thì xảy ra nhiều mâu thuẫn bất đồng, do ông Đ thường xuyên ăn nhậu, không quan tâm đến bà, gia đình, nên vợ chồng thường xuyên cự cãi, từ giữa năm 2020 cả hai đã tự sống ly thân, trong thời gian ly thân cả hai cũng không có ý định hàn gắn tình cảm, mặc dù đã được gia đình hai bên hòa giải. Nay nhận thấy tình cảm không còn nên bà H yêu cầu ly hôn với ông Đ.

- Về con chung: giữa bà Phan Thị H và ông Trần Văn Đ có 02 con chung tên Trần Văn Tr, sinh ngày 19/12/2008 và cháu Trần Văn H1, sinh ngày 16/10/2015. Sau khi ly hôn, bà H đề nghị con chung do ông Đ tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng; vì bà không muốn chia rẽ tình cảm anh em của các con; bà không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

- Bà Phan Thị H trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xác định không có tài liệu, chứng cứ khác giao nộp cho Tòa án chứng minh cho ý kiến, yêu cầu của mình.

- Ông Trần Văn Đ vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa, nên không ghi nhận được ý kiến, và ông Đ cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ, nên Hội đồng xét xử thống nhất đưa vụ án ra xét xử theo quy định pháp luật tố tụng.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Trần Văn Đ từ khi thụ lý vụ án vắng mặt, nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử theo Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: bà Phan Thị H và ông Trần Văn Đ quen biết, tìm hiểu, kết hôn có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, sau khi kết hôn sống hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì xảy ra mâu thuẫn, do ông Đ không quan tâm đến gia đình, vợ cH thường xuyên cự cãi, nhận thấy tình cảm không còn bà H yêu cầu ly hôn.

Xét thấy, từ khi bà H yêu cầu ly hôn, cả hai không tạo điều kiện hàn gắn, ông Đ không có ý kiến phản hồi trong quá trình giải quyết vụ án, bà H khẳng định không còn tình cảm với ông Đ, điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ cH đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của bà H là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, nghĩ nên chấp nhận.

Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Văn Tr, sinh ngày 19/12/2008 và cháu Trần Văn H1, sinh ngày 16/10/2015, bà H đề nghị để ông Đ tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, do không muốn chia rẽ tình cảm của các con, điều này cũng phù hợp với ý kiến của cháu Tr do cán bộ Tòa án ghi nhận ý kiến trong giải đoạn chuẩn bị xét xử, cháu Tr cũng mong muốn sống với ông Đ, nên đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung cho ông Đ chăm sóc, nuôi dưỡng, bà H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không đề cập đến.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định.

[1] Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Bà Phan Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Trần Văn Đ, cả bà H và ông Đ đều cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Trần Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị H và ông Trần Văn Đ kết hôn do mai mỗi, nhưng việc kết hôn là không bị ép buộc, hoàn toàn tự nguyện, bà H và ông Đ có đăng ký kết hôn, nên việc bà H, ông Đ kết hôn là đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Trong giai đoan chuẩn bị xét xử, cũng như tại phiên tòa, bà H khẳng định không còn tình cảm với ông Đ, nguyên nhân mâu thuẫn vợ cH xuất phát từ việc ông Đ không chăm lo cho cuộc sống gia đình, thường xuyên uống rượu, bia nên không quan tâm tới bà H; ông Đ đã được Tòa án cấp, tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử ông Đ không có văn bản phản hồi, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh, điều này thể hiện ông Đ không có thiện Tr trong hàn gắn tình cảm, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình, cũng như mong muốn đoàn tụ với bà H để tiếp tục xây dựng hạnh phúc gia đình. Do vậy, có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông Đ là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; nên việc bà H yêu cầu ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H.

[2.2] Về quan hệ con chung: bà H xác định, giữa bà và ông Đ có 02 con chung tên Trần Văn Tr, sinh ngày 19/12/2008 và cháu Trần Văn H1, sinh ngày 16/10/2015, cháu Tr và cháu H1 đang chung sống với ông Đ, bà H trình bày mong muốn để hai con sống chung cùng nhau, không chia rẽ tình cảm các con, nên đồng ý giao con chung cho ông Đ nuôi dưỡng, chăm sóc, điều này cũng phù hợp với ý kiến của chúa Tr trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tại biên bản ghi nhận ý kiến của con chưa thành niên, do cán bộ Tòa án ghi nhận, cháu Tr cũng mong muốn ở với ông Đ. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu Tr, cháu H1, giúp các cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần; nên Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu Tr và cháu H1 cho ông Đ tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, do ông Đ không có văn bản trình bày yêu cầu về nuôi con, cấp dưỡng nuôi con, bà H không đề cập việc cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Phan Thị H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông Trần Văn Đ không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 271, 273, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Phan Thị H đối với bị đơn ông Trần Văn Đ;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị H được ly hôn với ông Trần Văn Đ. Giấy chứng nhận kết hôn số 105/2015, quyển số 01/2015 ngày 04/5/2015 do Ủy ban nhân dân xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang cấp cho bà Phan Thị H và ông Trần Văn Đ, không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho ông Trần Văn Đ được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Văn Tr, sinh ngày 19/12/2008 và cháu Trần Văn H1, sinh ngày 16/10/2015. Bà H không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Ông Trần Văn Đ cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà Phan Thị H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đề cập giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà Phan Thị H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010251 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 21 tháng 02 năm 2022; bà Phan Thị H đã nộp đủ án phí.

Ông Trần Văn Đ không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bà Phan Thị H có mặt, có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Trần Văn Đ là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 122/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:122/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về