Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 107/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 107/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 62/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp hôn nhân gia đình “Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 8 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị S – Sinh năm 1996. Nơi cư trú: số 541 tổ 14 khóm VH, thị trấn VT, huyện CP, tỉnh An Giang. Có mặt.

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn ông Lê Phước H, luật sư - Công ty luật TNHH MTV Phước H thuộc Đoàn luật sư tỉnh An Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Huy C – sinh năm 1990. Nơi cư trú: ấp MHB, xã MHĐ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị S trình bày trình bày: chị và anh C kết hôn vào năm 2017 có đăng ký kết hôn. Chung sống đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không hợp thường hay tranh cải nhau, anh C hay xúc phạm và dùng bạo lực, đến tháng 11/2021 thì vợ chồng không còn chung sống với nhau. Nhận thấy tình cảm không còn yêu cầu được ly hôn với anh C.

Về con chung: vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Huy K, sinh ngày 15/11/2019 hiện đang sống với chị; khi ly hôn yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung: không có.

Về quan hệ nợ chung: không có.

Bị đơn anh Nguyễn Huy C vắng mặt và cũng không gởi ý kiến đến Tòa án nên không ghi nhận được ý kiến của anh C.

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bày: Về hôn nhân giữa chị S và anh C là hợp pháp vợ chồng chung sống được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn và không ai quan tâm đến nhau nên đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Về con chung vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Huy K, sinh ngày 15/11/2019 hiện chị S đang nuôi dưỡng vẫn phát triển bình thường, do con chung chưa đủ 36 tháng tuổi nên đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao con chung cho chị S nuôi dưỡng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng quy định. Về ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân: chị S anh C kết hôn năm 2017, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng sống chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và không còn chung sống với nhau từ năm 2021, nhận thấy tình cảm không còn, chị S yêu cầu ly hôn, anh C không có ý kiến phản hồi và không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn hạnh phúc vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được. Về con chung vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Huy K, sinh ngày 15/11/2019 hiện đang sống với chị S; khi ly hôn yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con, từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau, cháu K do chị S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cuộc sống đã ổn định, trong quá trình giải quyết anh C cũng không có ý kiến phản đối. Do đó, chị S xin ly hôn anh C và tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là phù hợp Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn có nơi cư trú tại xã MHĐ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt không có lý do căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ.

[2]. Về nội dung tranh chấp Chị S và anh C kết hôn năm 2017 có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Theo chị S trình bày, trong quá trình chung sống vợ chồng thường hay phát sinh mâu thuẫn, không tôn trọng nhau, anh C hay xúc phạm và dùng bạo lực, đến tháng 11/2021 thì không còn chung sống đến nay. Nhận thấy, tình cảm không còn, chị S yêu cầu ly hôn với anh C. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc chị S yêu cầu ly hôn và triệu tập anh C tham gia các phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa, nhưng anh C vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của chị S. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị S, anh C đã diễn ra trong thời gian dài, nguyên nhân do vợ chồng hay bất đồng quan điểm, anh C hay xúc phạm và dùng bạo lực. Đến tháng 11 năm 2021 thì không còn chung sống với nhau đến nay. Trong thời gian này, hai bên cũng không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu chung sống với nhau cũng không hạnh phúc. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị S xin ly hôn anh C.

[3] Về quan hệ con chung: vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Huy K, sinh ngày 15/11/2019 hiện đang sống với chị S; khi ly hôn yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau, cháu K do chị S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cuộc sống đã ổn định, trong quá trình giải quyết anh C cũng không có ý kiến phản đối. Do đó, để chị S tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là phù hợp với pháp luật, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về quan hệ tài sản chung: không có.

[5] Về quan hệ nợ chung: không có.

[6] Án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị S phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị S xin ly hôn anh Nguyễn Huy C.

Giấy chứng nhận kết hôn số 18 ngày 3 tháng 02 năm 2017 do Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hội Đông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: Chị Lê Thị S được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Huy K, sinh ngày 15/11/2019, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Lê Thị S cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh C trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản chung: Không có.

- Về quan hệ nợ chung: Ghi nhận việc chị S xác định không có nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng sau khi quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì chị S, anh C phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Lê Thị S phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số 0010055 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 17/01/2022.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 107/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:107/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về