Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 07/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 12 tháng 5 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 28/2020/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05/4/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20/4/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Dương Thị Mỹ Ph, địa chỉ: Thôn X, xã V, huyện L, tỉnh Quảng Trị, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Quang P, địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khu phố A, Phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 25 tháng 11 năm 2020 và đơn sửa đổi, bổ sung ngày 12/01/2021 nguyên đơn Chị Dương Thị Mỹ Ph trình bày:

Chị Dương Thị Mỹ Ph và Anh Lê Quang P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 5, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị vào ngày 15/01/2009. Quá trình chung sống đến năm 2012 vợ chồng bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn và không tìm được tiếng nói chung. Sau đó, chị Ph về nhà bố mẹ đẻ ở thôn X, xã V, huyện L, tỉnh Quảng Trị sinh sống cho đến nay. Sau thời gian sống ly thân thì vợ chồng chị Ph vẫn không hòa thuận. Hiện nay anh P đi lao động tại Đài Loan không rõ địa chỉ. Vì vậy, chị Ph khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

- Về tình cảm: Đề nghị Tòa án giải quyết cho Chị Dương Thị Mỹ Ph được ly hôn Anh Lê Quang P.

- Về con chung: Chị Ph và anh P có 01 con chung là cháu Lê Thị Trà My, sinh ngày16/4/2009. Chị Ph có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Lê Thị Trà My, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ph không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản xác minh ngày 02/3/2021, ông Lê Quang Khải (là cha đẻ của anh P) trình bày: Hiện anh P đã đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan, nhưng ông Khải không biết địa chỉ cụ thể của anh P. Anh P vẫn thường xuyên gọi điện liên lạc với ông Khải và gia đình thông qua mạng xã hội. Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập đến cho anh P, ông Khải nhận thay và đã thông báo cho anh P biết, nhưng vì bận công việc làm ăn tại Đài Loan nên anh P không thể có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và thông qua ông Khải thì anh P đồng ý ly hôn với chị Ph và đồng ý giao cháu Lê Thị Trà My, sinh ngày16/4/2009 cho chị Ph nuôi dưỡng.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và ngh a vụ theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn không cung cấp địa chỉ nơi mình đang sinh sống tại Đài Loan, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án nên đây là trường hợp cố tình giấu địa chỉ, trốn tránh ngh a vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu theo yêu cầu của Tòa án, - Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227, Điều 228, 238 Bộ luật tố tụng dân sự, xử:

+ Về tình cảm: Chị Dương Thị Mỹ Ph được ly hôn Anh Lê Quang P.

+ Về con chung: Giao cho Chị Dương Thị Mỹ Ph trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Lê Thị Trà My, sinh ngày16/4/2009, anh P không phải cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung và nợ chung : Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị Ph phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng :

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Chị Dương Thị Mỹ Ph khởi kiện xin được ly hôn Anh Lê Quang P. Theo Công văn số 1209/PA08(Đ1) ngày 10/12/2020 của Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Quảng Trị xác nhận: Anh Lê Quang P đã xuất cảnh ra nước ngoài lần cuối cùng ngày 28/8/2017, đến nay vẫn chưa nhập cảnh về Việt Nam. Như vậy, vụ án này có đương sự ở nước ngoài. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị Ph là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37 và điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về thủ tục cấp tống đạt văn bản tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng như thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và giấy triệu tập cho anh P tại gia đình ở Khu phố 1, Phường 5, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Ông Lê Quang Khải (là cha đẻ của anh P) không biết địa chỉ của anh P ở Đài Loan, anh P thường xuyên liên lạc với gia đình thông qua mạng xã hội. Vì vậy, ông Khải nhận các văn bản tố tụng thay cho anh P và cam đoan giao lại cũng như thông báo nội dung văn bản tố tụng của Tòa án cho anh P biết.

[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự:

Bị đơn Anh Lê Quang P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Chị Dương Thị Mỹ Ph có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vắng mặt nguyên đơn Chị Dương Thị Mỹ Ph và bị đơn Anh Lê Quang P.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Dương Thị Mỹ Ph và Anh Lê Quang P kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 5, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị vào ngày 15/01/2009. Đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Xét yêu cầu của Chị Dương Thị Mỹ Ph xin được ly hôn Anh Lê Quang P, Hội đồng xét xử thấy: Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa chị Ph và anh P là do hai bên không hòa hợp, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung và không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc nhau. Hiện chị Ph đang ở Việt Nam, còn anh P đang ở nước ngoài, cả hai không còn liên lạc với nhau và anh P cũng muốn được ly hôn chị Ph. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án triệu tập anh P nhiều lần đến Tòa án để hòa giải, nhưng anh P không có mặt. Còn chị Ph đề nghị Tòa án không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chị Dương Thị Mỹ Ph.

[2.2] Về con chung: Chị Dương Thị Mỹ Ph và Anh Lê Quang P có con chung là cháu Lê Thị Trà My, sinh ngày 16/4/2009. Cháu Lê Thị Trà My có đơn đề nghị Tòa án cho cháu được ở với chị Ph. Còn chị Ph có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu My và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử thấy Anh Lê Quang P đang ở nước ngoài, hiện không rõ địa chỉ nên cần giao cháu My cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho cháu. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Ph không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Dương Thị Mỹ Ph không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Dương Thị Mỹ Ph phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147, khoản 1, 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 238, điểm d khoản 1 Điều 469, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Dương Thị Mỹ Ph.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị Mỹ Ph được ly hôn Anh Lê Quang P.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Thị Trà My, sinh ngày 16/4/2009 cho Chị Dương Thị Mỹ Ph trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Lê Quang P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Dương Thị Mỹ Ph phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số AA/2010/000787 ngày 18/12/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị. Chị Ph đã nộp đủ.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 07/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Trị
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về