TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 25/2022/DS-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TIỀN VÀ CẦM CỐ TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 7 năm 2022, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 109/2021/TLST-DS ngày 27 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp hợp đồng vay tiền và cầm cố tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2022/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
1. N đơn: Công ty TNHH MTV Q. Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Q, chức vụ: Chủ tịch kiêm Giám đốc.
Địa chỉ: Số 52, đường 28, Khu phố 2, phường P, thành phố H, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mạc Văn K, chức vụ: Nhân viên xử lý nợ. Địa chỉ: Số 90, P, Khu phố 4, phường Đ, thành phố H, tỉnh Kiên Giang. (Giấy ủy quyền ngày 27/12/2021)
2. Bị đơn:
- Ông Chao Hoàng T, sinh năm 1991;
- Ông Chao Văn N, sinh năm 1987.
Địa chỉ: Tổ 2, Khu phố 4, phường Đ, thành phố H, tỉnh Kiên Giang.
(Ông K có mặt, ông T và ông N vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 11 năm 2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:
Công ty TNHH MTV Q có nhận cầm cố tài sản của ông Chao Hoàng T và ông Chao Văn N. Theo hợp đồng cầm cố tài sản số KM:857/HĐ ngày 15/01/2020, Công ty cho ông T và ông N vay 10.000.000 đồng, lãi suất 1.26%/tháng, thời hạn 06 tháng, hình thức thanh toán: Thu 59.750 đồng/ngày, ngày cuối cộng 1.000 đồng. Tài sản cầm cố: 01 chiếc xe mô tô, xe máy 02 bánh nhãn hiệu SHMOTO (110E), màu sơn: Đen đỏ bạc, số máy FMH 026416, số khung MAXY 26416, dung tích 107m3, BKS: 68H2-7371, giấy chứng nhận đăng ký xe số 000574 mang tên Trương Duy Anh T2 do Công an H, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 28/6/2011 (Trương Duy Anh T2 đã bán xe cho Chao Hoàng T theo hợp đồng được công chứng ngày 26/8/2019). Sau đó, ông T, ông N mượn chiếc xe trên làm phương tiện đi lại và Công ty đồng ý cho mượn.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông T, ông N đã thanh toán cho Công ty số tiền gốc 2.824.718 đồng và tiền lãi 741.533 đồng, còn nợ lại tiền gốc 7.174.000 đồng và tiền lãi 1.220.468 đồng, tổng cộng là 8.395.000 đồng. Công ty đã nhiều lần thông báo yêu cầu thanh toán số tiền trên nhưng ông T, ông N vẫn không chịu thanh toán. Nay, Công ty TNHH MTV Q yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T, ông N phải thanh toán số tiền 8.395.000 đồng (Tám triệu ba trăm chín mươi lăm nghìn đồng), trong đó nợ gốc 7.174.000 đồng và lãi là 1.220.468 đồng. Đồng thời, ông T, ông N phải trả lãi chậm trả theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 số tiền là 1.905.414 đồng và tiếp tục chịu lãi chậm trả từ ngày 22/11/2021 cho đến khi thanh toán dứt nợ. Khi nào ông T, ông N thanh toán xong số tiền trên, Công ty đồng ý trả lại bản chính giấy chứng nhận đăng ký xe nêu trên cho ông T, ông N.
Ngày 27/5/2022, Công ty TNHH MTV Q làm đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với tiền lãi là 678.668 đồng, tiền chậm thanh toán là 953.644 đồng.
Theo nội dung biên bản lấy lời khai ngày 15/3/2022, bị đơn ông Chao Văn N trình bày:
Ngày 15/01/2020, ông N và em ruột là ông Chao Hoàng T có đến Công ty TNHH MTV Q vay số tiền 10.000.000 đồng, lãi suất 1,26%/tháng, thời gian 06 tháng, có cầm cố giấy tờ xe. Ông N và ông T đã trả được 2.824.718 đồng và tiền lãi 741.533 đồng. Ông N thừa nhận còn nợ Công ty TNHH MTV Q số tiền 8.395.000 đồng nhưng hiện nay không có khả năng trả. Nay ông N không có việc làm, thu nhập không ổn định, sức khỏe yếu, trong nhà có Chao Hoàng T là lao động chính nên phải chờ T về để trả. Hiện nay T đã về bên vợ ở Campuchia làm ăn, ông N không có vợ con gì. Chiếc xe T đang sử dụng và đã chạy về bên Campuchia, ông N sẽ trả hàng tháng, có bao nhiêu sẽ trả bấy nhiêu.
Từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, bị đơn ông Chao Hoàng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa làm việc, không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông N và ông T đều không đến Tòa làm việc nên Tòa án đã thực hiện các thủ tục tống đạt, niêm yết văn bản tố tụng, thực hiện trình tự thủ tục giải quyết vụ án theo quy định.
Nguyên đơn đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu chứng cứ liên quan yêu cầu khởi kiện bao gồm: Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty TNHH MTV Q (bản sao); Giấy chứng minh nhân dân tên Chao Hoàng T và Chao Văn N (phô tô); Sổ hộ khẩu chủ hộ Nguyễn Thị A (phô tô); Hợp đồng mua bán xe máy giữa Trương Duy Anh T2 và Chao Hoàng T (bản công chứng ngày 26/8/2019); Giấy chứng nhận đăng ký xe số 000574 mang tên Trương Duy Anh T2 (phô tô chứng thực); Hợp đồng cầm cố tài sản số KM:857/HĐ (bản chính).
Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu về việc yêu cầu khởi kiện và đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với tiền lãi là 678.668 đồng, tiền chậm thanh toán là 953.644 đồng.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến tại phiên tòa như sau:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử: Vụ án thụ lý là đúng thẩm quyền và đúng quan hệ pháp luật; xác định đầy đủ và đúng tư cách những người tham gia tố tụng; lập hồ sơ, thu thập chứng cứ đầy đủ; giao gửi các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng đúng quy định; gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định.
- Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông T và ông N phải thanh toán cho Công ty TNHH MTV Q số tiền gốc là 7.174.000 đồng, tiền lãi là 541.800 đồng, tiền lãi chậm thanh toán theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 từ ngày 14/7/2020 cho đến khi thanh toán dứt nợ; Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện đối với tiền lãi là 678.668 đồng, tiền chậm thanh toán là 953.644 đồng. Ghi nhận việc Công ty đồng ý trả lại bản chính giấy chứng nhận đăng ký xe sau khi bị đơn thanh toán xong nợ. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị đơn chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bị đơn ông Chao Hoàng T và ông Chao Văn N có nơi cư trú tại Khu phố 4, phường Đ, thành phố H, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền vay còn thiếu theo hợp đồng cầm cố tài sản giữa hai bên. Đây là tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tiền và cầm cố tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn ông Chao Hoàng T và ông Chao Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng đều vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Hợp đồng cầm cố tài sản ngày 15/01/2020, lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, Hội đồng xét xử xác định giữa Công ty TNHH MTV Q với ông Chao Hoàng T và ông Chao Văn N có xác lập hợp đồng vay tiền, biện pháp bảo đảm là cầm cố tài sản. Mặc dù hình thức của hợp đồng ghi là hợp đồng cầm cố tài sản, nhưng các thỏa thuận chủ yếu của các bên trong hợp đồng là giao kết hợp đồng vay tiền như là thỏa thuận về người vay, số tiền cho vay, lãi suất vay, tín chấp, ...và thỏa thuận biện pháp bảo đảm là cầm cố tài sản. Hợp đồng cầm cố tài sản số KM:857/HĐ ngày 15/01/2020, Công ty cho ông T và ông N vay 10.000.000 đồng, lãi suất 1.26%/tháng, thời hạn 06 tháng, hình thức thanh toán: Thu 59.750 đồng/ngày, ngày cuối cộng 1.000 đồng. Tài sản cầm cố: 01 chiếc xe mô tô, xe máy 02 bánh nhãn hiệu SHMOTO (110E), màu sơn: Đen đỏ bạc, số máy FMH 026416, số khung MAXY 26416, dung tích 107m3, BKS: 68H2-7371, giấy chứng nhận đăng ký xe số 000574 mang tên Trương Duy Anh T2 do Công an H, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 28/6/2011 (Trương Duy Anh T2 đã bán xe cho Chao Hoàng T theo hợp đồng được công chứng ngày 26/8/2019). Tuy nhiên tại thời điểm ký kết hợp đồng, bên cầm cố là ông T và ông N không giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho Công ty, Công ty không nắm giữ tài sản là chiếc xe mà ghi trong hợp đồng là cho ông T và ông N mượn sử dụng, chỉ giữ lại giấy chứng nhận đăng ký xe. Theo quy định tại Điều 309 của Bộ luật Dân sự, cầm cố tài sản chỉ là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong vụ án này là nghĩa vụ vay tiền. Như vậy, giao kết giữa các bên thực chất là giao kết hợp đồng vay tiền. Đây là hợp đồng vay có kỳ hạn và có lãi, phù hợp quy định tại Điều 463 và khoản 2 Điều 470 của Bộ luật Dân sự. Giao dịch dân sự được xác lập giữa các bên có hiệu lực theo quy định tại Điều 116 và Điều 117 của Bộ luật Dân sự.
[4] Theo quy định tại khoản 1 Điều 466 của Bộ luật Dân sự về nghĩa vụ trả nợ của bên vay: “1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn, …”. Khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự về lãi suất quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay ...”. Do ông T và ông N vi phạm việc trả nợ, nên Công ty TNHH MTV Q yêu cầu ông T và ông N phải có nghĩa vụ trả nợ là có căn cứ chấp nhận. Ông T và ông N còn nợ tiền gốc 7.174.000 đồng và tiền lãi là 541.800 đồng, tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 13/7/2020 – 22/11/2021 là 951.770 đồng. Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu về việc yêu cầu khởi kiện và xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với phần tiền lãi là 678.668 đồng, tiền chậm thanh toán là 953.644 đồng, nên Hội đồng xét xử đình chỉ phần yêu cầu này theo quy định tại khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Như vậy, tổng cộng số nợ buộc ông T và ông N có trách nhiệm trả cho nguyên đơn gồm: Tiền gốc là 7.174.000 đồng + tiền lãi là 541.800 đồng + tiền lãi chậm thanh toán của tiền gốc (từ ngày 14/7/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm 26/7/2022) là 1.452.876 đồng = 9.168.676 đồng. Đồng thời, ông T và ông N phải trả lãi chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 từ ngày 27/7/2022 cho đến khi thanh toán dứt nợ. Ghi nhận ý kiến của Công ty TNHH MTV Q về việc khi nào ông T và ông N thanh toán xong số tiền trên, Công ty đồng ý trả lại bản chính giấy chứng nhận đăng ký xe số 000574 cho ông T và ông N.
[5] Về án phí: Ông T và ông N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 5% trên số tiền phải thanh toán cho Công ty TNHH MTV Q, số tiền án phí là 458.000 đồng. Hoàn trả cho Công ty TNHH MTV Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 26, 35, 39, 147, 217, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 309, 357, Điều 463, khoản 1 Điều 466, Điều 468 và khoản 2 Điều 470 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Q. Buộc ông Chao Hoàng T và ông Chao Văn N phải thanh toán cho Công ty TNHH MTV Q số tiền 9.168.676 đồng (Chín triệu một trăm sáu mươi tám nghìn sáu trăm bảy mươi sáu đồng), trong đó tiền gốc là 7.174.000 đồng, tiền lãi là 541.800 đồng, tiền lãi chậm thanh toán của tiền gốc (từ ngày 14/7/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm 26/7/2022) là 1.452.876 đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ghi nhận ý kiến của Công ty TNHH MTV Q về việc khi nào ông T và ông N thanh toán xong số tiền trên, Công ty đồng ý trả lại cho ông T và ông N bản chính giấy chứng nhận đăng ký xe số 000574 mang tên Trương Duy Anh T2 do Công an H, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 28/6/2011 (Trương Duy Anh T2 đã bán xe cho Chao Hoàng T theo hợp đồng được công chứng ngày 26/8/2019).
2. Đình chỉ phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Q đối với phần tiền lãi là 678.668 đồng (Sáu trăm bảy mươi tám nghìn sáu trăm sáu mươi tám đồng) và tiền chậm thanh toán là 953.644 đồng (Chín trăm năm mươi ba nghìn sáu trăm bốn mươi bốn đồng).
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Buộc ông Chao Hoàng T và ông Chao Văn N phải cùng chịu án phí số tiền 458.000 đồng (Bốn trăm năm mươi tám nghìn đồng).
- Trả lại cho Công ty TNHH MTV Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000342 ngày 27/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Kiên Giang.
4. Quyền kháng cáo: N đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tiền và cầm cố tài sản số 25/2022/DS-ST
Số hiệu: | 25/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về