Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 38/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIÁ RAI, TỈNH BL

BẢN ÁN 38/2022/DS-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 18/2021/TLST-DS ngày 19 tháng 10 năm 2021 về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2022/QĐXX -DS ngày 19 tháng 04 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà T rần Thị Phương T  sinh năm 1976 Địa chỉ: Khóm 5, phường H P, thị xã GR, tỉnh B L *Đồng bị đơn: Bà Vương Chúng K sinh năm 1970 Ông Trương Anh D sinh năm 1963 Cùng địa chỉ: Khóm 5, phường H P, thị xã GR, tỉnh BL (Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, các bị đơn vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai trong hồ sơ cũng như tại phiên toà, bà T rần Thị Phương T trình bày: Bà cho bà K và ông D vay 200.000.000 đồng, thời điểm là sau khi bà K và ông D trả xong nợ 100.000.000 đồng trong hợp đồng công chứng ngày 29/7/2015. Thời gian cho vay 200.000.000 đồng thì bà không nhớ ngày tháng năm nào, lúc giao tiền thì bà K nhận trực tiếp của bà T là 200.000.000 đồng, bà K có làm giấy tay, kèm theo 01 bằng khoáng đưa cho bà làm tin. Sau này bà đòi thì bà K có ký tờ giao kèo ngày 22/9/2016 âm lịch, hai bên thoả thuận lãi là 6.000.000 đồng/tháng nhưng bà K đóng lãi được 06 tháng tiền lãi thì không đóng lãi. Ông Trương Anh D đứng ra trả cho bà 50.000.000 đồng, bà T đã giao lại bằng khoáng và giấy nợ 200.000.000 đồng cho ông Trương Anh D, bà K ghi lại tờ hợp đồng không ghi ngày tháng năm là còn nợ lại bà T là 150.000.000 đồng. Việc nợ của bà K thì ông D cũng biết, vì ông D và bà K là vợ chồng, sống chung nhà thì phải biết. Khi cho vay 200.000.000 đồng thì thì bà K không tiếp tục đóng lãi nữa nên khi ông D đứng trả 50.000.000 đồng (trả 2 lần). Đến nay bà K không đóng cho bà T một đồng lãi nào và cũng không trả vốn cho bà. Nay bà yêu cầu bà K và ông D có nghĩa vụ liên đới trả cho tôi số tiền nợ vốn là 150.000.000 đồng và lãi suất theo quy định pháp luật, thời gian tính lãi sau 6 tháng kể từ ngày 22/9/2016 âm lịch.

Đối với bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D thì Toà án có tiến hành triệu tập làm việc và đến nhà để tiến hành ghi lời khai nhưng ông D không hợp tác, không đồng ý cho Thẩm phán ghi lời khai nên không thu thập được ý kiến của ông D. Còn bà K thì qua xác minh hiện nay bà K không có mặt tại địa phương nên Toà án tiến hành tống đạt theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, thẩm phán đã thực hiện đúng quy định tại điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định địa các Điều 70, 71, 234 BLTTDS. Các bị đơn là bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D vắng mặt tại phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải. Tại phiên toà hôm nay, bà K và ông D tiếp tục vắng mặt lần thứ hai không lý do nên toà án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà K và ông D là đúng theo quy định tại Điều 227 BLTTDS. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 288,463, 466, 468 Bộ luật dân sự. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T rần Thị Phương T huỳ, buộc bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D cùng có nghĩa vụ trả số tiền nợ còn thiếu cho bà T rần Thị Phương T là 150.000.000đồng tiền nợ vốn, số tiền lãi tính từ ngày 22/05/2017 dương lịch đến ngày xét xử là 140.292.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1]Về tố tụng: Bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không thuộc trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D.

[2] Hội đồng xét xử xem xét đơn khởi kiện, lời trình bày của nguyên đơn cùng với các chứng cứ mà đương sự cung cấp trong hồ sơ cũng như tính thực tế khách quan. Hội đồng xét xử nhận định: Bà T rần Thị Phương T yêu cầu bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D cùng có trách nhiệm trả cho bà T số tiền nợ vốn là 150.000.000 đồng và lãi suất theo quy định pháp luật, thời gian tính lãi sau 6 tháng kể từ ngày 22/9/2016 âm lịch.

Xét thấy, bà T có cung cấp Tờ giao kèo ngày 22/09/2016 âm lịch có ghi: “…Hôm nay ngày 22/9AL tôi Vương Chúng K là người mượn nợ Trần Thị Phương T số tiền 200 triệu, 200 triệu này là 6 triệu tiền lãi với lời hứa trong vòng tháng 10Al là trả trước 50 triệu vốn với 6 triệu lãi, lãi suất trả ngày 11/10/2016AL…” và Tờ hợp đồng không ghi ngày tháng có ghi: “…Tôi Vương Chúng K có vay chị Trần Thị Phương T 150.000.000 đồng, tôi hứa từ đây đến tết tôi sẽ trả …”. Cả hai tài liệu, chứng cứ mà bà T cung cấp đều có chữ ký và chữ viết tên Vương Chúng K, bà T xác định đó là chữ ký và chữ viết của bà K.

Trong quá trình giải quyết, bà T rần Thị Phương T có cung cấp Hợp đồng vay tiền ghi ngày 29/07/2015 (số tiền nợ trong hợp đồng bà K và ông D đã thanh toán xong) có chữ ký, chữ viết của bà K và ông D. Mục đích mà Tcung cấp là để đối chiếu chữ viết và chữ ký của bà K nhằm chứng minh bà K còn nợ bà T số tiền 150.000.000 đồng như đã ghi trong Tờ giao kèo, Tờ hợp đồng. Tờ hợp đồng vay tiền ngày 29/7/2015 được Công chứng tại Văn phòng công chứng Hộ Phòng, có chữ ký của công chứng viên và đóng dấu của Văn phòng công chứng Hộ Phòng.

Tại bản kết luận giám định ngày 06/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bạc Liêu kết luận: Chữ ký Vương Chúng K trong Tờ giao kèo đề ngày 22/9/2016 và chữ ký Vương Chúng K trong Tờ hợp đồng không đề ngày so với chữ ký Vương Chúng K trong mẫu tài liệu so sánh là Tờ hợp đồng vay tiền ngày 29/7/2015 là cùng một người ký ra.

Việc bà T yêu cầu ông D cùng có trách nhiệm liên đới trả nợ là phù hợp vì số tiền vay phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của bà K và ông D.

Từ những điều trên, hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà T rần Thị Phương T về việc yêu cầu bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D trả số tiền vốn vay 150.000.000 đồng.

Bà T yêu cầu bà K và ông D trả tiền lãi theo quy định pháp luật đối với số tiền vốn vay 150.000.000 đồng, thời gian tính lãi sau 06 tháng từ ngày 22/09/2016 âm lịch ( nhầm ngày 22/10/2016 dương lịch). Hội đồng xét xử xét thấy theo Tờ giao kèo thì các bên có thoả thuận là tiền lãi 6.000.000 đồng/tháng trên số tiền vốn là 200.000.000 đồng, tức là 3%/ tháng , thoả thuận này đã vượt mức quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Tại phiên toà, bà T xác định bà K đã đóng 6 tháng tiền lãi là 36.000.000 đồng. Theo quy định pháp luật thì bà K phải trả lãi 20%/năm trên số tiền 200.000.000 đồng = 3.320.000 đồng/tháng x 6 tháng =19.920.000 đồng, như vậy bà K trả lãi dư 16.080.000 đồng.

Sau 06 tháng đóng lãi và trả được 50.000.000 đồng thì từ ngày 22/05/2017 dương lịch đến nay bà K không trả vốn và lãi nên đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Vì vậy, hội đồng xét xử buộc bà K và ông D liên đới nghĩa vụ trả số tiền lãi từ ngày 22/05/2017 dương lịch đến ngày 15/08/2022 dương lịch là 62 tháng 24 ngày:

2.490.000 đồng x 62 tháng 24 ngày = 156.372.000 đồng. Bà K và ông D được đối trừ số tiền đóng lãi dư là 16.080.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu về tiền lãi của bà T là có cơ sở, vì vậy buộc bà K và ông D có trách nhiệm trả cho bà T là số tiền lãi 140.292.000 đồng. Tổng số tiền bà K và ông D phải trả cho bà T là 290.292.000 đồng (trong đó tiền vốn vay là 150.000.000 đồng và tiền lãi là 140.292.000 đồng).

Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D cùng phải nộp theo quy định của pháp luật.

Về chi phí tố tụng: Bà T rần Thị Phương T đã dự nộp 6.082.000đồng để chi phí cho việc giám định chữ ký. Do kết quả giám định chứng minh yêu cầu của bà T đối với bà K, ông D là có căn cứ nên bà K và ông D có nghĩa vụ cùng phải nộp số tiền 6.082.000đồng hoàn trả lại cho bà T tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Giá Rai.

Xét thấy, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai là phù hợp nên được ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 288,357,463, 466, 468 Bộ luật dân sự.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 măm 2016.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà T rần Thị Phương T đối với bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D.

Buộc bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D cùng có nghĩa vụ liên đới trả số tiền 290.292.000 đồng ( trong đó tiền vốn vay là 150.000.000 đồng và tiền lãi là 140.292.000 đồng) cho bà T rần Thị Phương T .

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:

- Bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D phải cùng chịu án phí là 14.514.600 đồng nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Giá Rai.

- Bà T rần Thị Phương T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.091.000đồng theo biên lai thu số 0003729 ngày 19/10/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Giá Rai.

3. Về chi phí tố tụng: Bà Vương Chúng K và ông Trương Anh D có nghĩa vụ cùng phải nộp số tiền 6.082.000đồng hoàn trả lại cho bà T rần Thị Phương T tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Giá Rai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, báo cho đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 38/2022/DS-ST

Số hiệu:38/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về