Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 38/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 38/2022/DS-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN 

Ngày 30 tháng 5 năm 2022, Tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 341/2021/TLST- DS, ngày 08 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2022/QĐST - DS ngày 18 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2022/QĐST – DS ngày 06 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển V (BIDV).

Địa chỉ: Số 35 H, Quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đức T – Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển V.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Cao Tr – Phó Giám đốc Phòng giao dịch K, Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển V.

(Quyết định ủy quyền số 1043a/BIDV.BH ngày 22/6/2021, có mặt ). Địa chỉ: 105 N, Thị trấn K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị đơn: Bà H’ NN và ông Y SM ( Vắng mặt không có lý do ).

Địa chỉ: Buôn U, Thị trấn K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, ông Nguyễn Cao Tr trình bày:

Ngày 23/4/2020 Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển V - Chi nhánh B - Phòng giao dịch K ( sau đây gọi tắt là ngân hàng ) và ông bà Y SM - H’ NN ( Do bà H’ NN làm đại diện) đã ký kết Hợp đồng tín dụng số 01/2020/6922057/HĐTD với nội dung: Ngân hàng cho ông Y S và bà H’ N vay số tiền 190.000.000đ ( Một trăm chín mươi triệu đồng), thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày giải ngân, lãi suất 11,6%/năm. Mục đích vay để chi tiêu sinh hoạt. Ngân hàng đã giải ngân số tiền theo hợp đồng cho bà H’ N.

Tài sản thế chấp để bảo đảm khoản vay là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P 173980 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P 121508. Các Giấy chứng nhận QSD đất do Ủy ban nhân dân huyện K cấp ngày 29/10/1999 mang tên Hộ ông Y D Mlô, nhưng đã đăng ký biến động sang tên bà H’ NN. Việc thế chấp được ký kết tại Hợp đồng thế chấp bất động sản số 01/2015/6922057/HĐBĐ ngày 10/02/2015.

Trong thời gian thực hiện hợp đồng ông Y S và bà H’ N chỉ mới trả được số tiền lãi là 16.726.247đ ( Trả ngày 25/11/2019), còn số nợ gốc 190.000.000đ và nợ lãi tiếp theo cho đến nay hộ ông Y S vẫn chưa trả cho ngân hàng, mặc dù đã quá hạn trả nợ.

Tính đến ngày xét xử tổng số tiền mà ông Y S và bà H’ N còn nợ ngân hàng là 232.310.282đ ( Hai trăm ba mươi hai triệu ba trăm mười ngàn hai trăm tám mươi hai đồng), trong đó: Nợ gốc là 190.000.000đ, nợ lãi là 42.310.282đ (Lãi trong hạn là 29.857.943đ, lãi quá hạn là 12.137.096đ, lãi chậm trả đối với lãi là 585.241đ). Do ông Y S và bà H’ N đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Y S và bà H’ N phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng toàn bộ số tiền tính đến ngày xét xử là 232.310.282đ, đồng thời phải tiếp tục trả lãi phát sinh theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng kể từ ngày 31/5/2022 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng.

Trường hợp ông Y S và bà H’ N không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm của ông Y S và bà H’ N để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

- Quá trình giải quyết vụ án, tại Biên bản lấy lời khai ngày 09/12/2021 và ngày 13/12/2021 bị đơn bà H’ NN và ông Y SM trình bày:

Tháng 4 năm 2020 gia đình ông bà và ngân hàng đã ký kết Hợp đồng tín dụng (Không nhớ rõ ngày ký hợp đồng và số hợp đồng tín dụng). Nội dung hợp đồng như sau:

Ngân hàng cho ông bà vay số tiền 190.000.000đ (Một trăm chín mươi triệu đồng), thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày giải ngân, mức lãi cụ thể hiện nay ông bà không nhớ. Mục đích vay để chi tiêu sinh hoạt gia đình.

Tài sản thế chấp để bảo đảm khoản vay là 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Hộ ông Y D Mlô, nhưng đã đăng ký biến động sang tên bà H’ NN.

Sau khi vay thì cho đến nay gia đình ông bà có trả được hơn 16.000.000đ tiền lãi. Còn số nợ gốc và nợ lãi tiếp theo ông bà vẫn chưa trả nợ cho ngân hàng, mặc dù đã quá hạn trả nợ gốc và quá hạn trả nợ lãi. Ông bà công nhận hiện nay gia đình ông bà còn nợ ngân hàng số tiền gốc 190.000.000đ ( Một trăm chín mươi triệu đồng) và tiền lãi phát sinh.

Do ông bà đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên việc ngân hàng khởi kiện ông bà là hoàn toàn đúng. Do điều kiện khó khăn, nên ông bà xin được gia hạn thêm thời gian trả nợ.

Tại phần tranh luận, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến, trong đó trình bày:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đầy đủ và đúng các quy định của bộ luật Tố tụng dân sự. Các bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt nên việc Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa đương sự tuân thủ nội quy phiên tòa và sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.

- Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ Điều 295, 463, 466, 468 Bộ luật dân sự: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Buộc bà H’ Nẽ Niê và ông Y SM phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền gốc là 190.000.000đ, tiền lãi tính đến ngày xét xử, lãi chậm trả theo quy định. Ngoài ra, bà H’ NN và ông Y SM còn phải chịu lãi phát sinh cho đến khi trả hết nợ. Trường hợp bà H’ Nẽ Niê và ông Y SM không trả được nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý các tài sản thế chấp mà bà H’ NN và ông Y SM đã thế chấp để thu hồi nợ. Sau khi thanh toán xong nợ và lãi, ngân hàng có trách nhiệm trả lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất cho bà H’ NN và ông Y SM.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[ 1 ]. Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa các bị đơn là bà H’ NN và ông Y SM vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 BLTTDS, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Căn cứ vào yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ, HĐXX thấy rằng: Giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển V với bà H’ NN và ông Y SM đã xác lập giao dịch vay tiền. Do ngân hàng cho rằng bà H’ NN và ông Y SM không trả nợ đúng hạn nên đã khởi kiện tại Tòa án. Vì vậy HĐXX xác định tranh chấp giữa ngân hàng với bà H’ NN và ông Y SM là tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS và thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Krông Năng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS.

[ 2 ]. Về nội dung tranh chấp:

+ Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Nguyên đơn yêu cầu bà H’ NN và ông Y SM trả số tiền nợ gốc, lãi tính đến ngày xét xử là 232.310.282đ ( Hai trăm ba mươi hai triệu ba trăm mười ngàn hai trăm tám mươi hai đồng), vì cho rằng bà H’ NN và ông Y SM vi phạm nghĩa vụ trả nợ, HĐXX xét thấy:

Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và bị đơn thống nhất nội dung ý kiến về số tiền vay, thời hạn trả nợ cũng như số nợ đã trả. Vì vậy đã có căn cứ xác định như sau: Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển V – Chi nhánh B – Phòng giao dịch K cho bà H’ NN và ông Y SM vay số tiền tiền 190.000.000đ ( Một trăm chín mươi triệu đồng), thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày giải ngân. Sau khi ký kết hợp đồng ngân hàng đã giải ngân số tiền 190.000.000đ cho bà H’ NN và ông Y SM theo Hợp đồng tín dụng.

Theo thời hạn trả nợ mà các bên thỏa thuận tại các hợp đồng tín dụng thì tính đến thời điểm ngân hàng khởi kiện tại Tòa án khoản vay của bà H’ NN và ông Y SM đối với ngân hàng đã quá hạn trả nợ. Tuy nhiên, trong thời hạn vay bà H’ NN và ông Y SM chỉ mới trả cho ngân hàng được một kỳ tiền lãi, với số tiền là 16.726.247đ. Tính đến thời điểm xét xử bà H’ NN và ông Y SM còn nợ ngân hàng số tiền là 232.310.282đ, trong đó: Nợ gốc là 190.000.000đ, nợ lãi là 42.310.282đ Bà H’ NN và ông Y SM không tiếp tục thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng và cũng không bàn giao tài sản thế chấp cho ngân hàng để xử lý nợ, là đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn thanh toán số nợ gốc còn lại và tiền lãi phát sinh là hoàn toàn có căn cứ.

+ Xét ý kiến của bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án bà H’ NN và ông Y SM đề nghị được gia hạn thời hạn trả nợ. Nhưng do phía bị đơn vi phạm nghĩa vụ và nguyên đơn không chấp nhận ý kiến của bị đơn. Nên HĐXX xét thấy không có cơ sở để chấp nhận.

Từ những phân tích nêu trên, để đảm bảo quyền lợi cho bên bị vi phạm, HĐXX xét thấy cần áp dụng các Điều 295, 463, 466 và 468 của Bộ luật dân sự, chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển V, buộc bà H’ NN và ông Y SM phải trả cho ngân hàng toàn bộ số tiền nợ gốc, lãi suất tính đến ngày xét xử là 232.310.282đ, đồng thời phải chịu lãi suất phát sinh theo hợp đồng tín dụng kể từ ngày 31/5/2022 cho đến khi trả hết nợ.

Về xử lý tài sản thế chấp: Khi vay tiền ông bà H’ NN và ông Y SM đã thế chấp tài sản là: Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất. Vì vậy nếu bà H’ NN và ông Y SM không trả được nợ thì Ngân hàng được quyền yêu cầu xử lý tài sản mà bà H’ NN và ông Y SM đã thế chấp cho ngân hàng để thu hồi nợ.

[ 3 ]. Về án phí: Bà H’ NN và ông Y SM là người có lỗi và phải thực hiện nghĩa vụ dân sự, không thuộc trường hợp được miễn, giám án phí nên phải chịu toàn bộ án phí dân sự có giá ngạch, số tiền án phí phải chịu là 232.310.282đ x 5% = 11.615.500đ.

Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được chấp nhận nên sẽ được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 295, 463, 466 và 468 của Bộ luật dân sự; khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển V.

1. Buộc bà H’ NN và ông Y SM phải liên đới trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển V tổng số tiền là 232.310.282đ (Hai trăm ba mươi hai triệu ba trăm mười ngàn hai trăm tám mươi hai đồng), trong đó: Nợ gốc là 190.000.000đ, nợ lãi là 42.310.282đ Kể từ ngày 31/5/2022 cho đến khi thi hành án xong, bà H’ NN và ông Y SM còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quá hạn các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số 01/2020/6922057/HĐTD ngày 23/4/2020.

Sau khi bà H’ NN và ông Y SM trả hết nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển V, thì Ngân hàng có nghĩa vụ trả lại cho bà H’ NN và ông Y SM Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P 173980 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P 121508. Các Giấy chứng nhận QSD đất do Ủy ban nhân dân huyện K cấp ngày 29/10/1999 mang tên Hộ ông Y D Mlô, nhưng đã đăng ký biến động sang tên bà H’ NN.

Trường hợp bà H’ NN và ông Y SM khoâng trả hoặc trả không hết nợ, thì Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển V có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mà bà H’ NN và ông Y SM đã thế chấp cho ngân hàng tại Hợp đồng thế chấp số 01/2015/6922057/HĐBĐ ngày 10/02/2015, để thu hồi nợ.

2. Về án phí: Bà H’ NN và ông Y SM phải liên đới nộp 11.615.500đ (Mười một triệu sáu trăm mười lăm ngàn năm trăm đồng) án phí dân sự có giá ngạch.

Hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển V số tiền 5.218.721đ (Năm triệu hai trăm mười tám ngàn bảy trăm hai mươi mốt đồng) đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Năng theo biên lai số 60AA/2021/003060 ngày 22 tháng 10 năm 2021.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 38/2022/DS-ST

Số hiệu:38/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về