Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 11/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 11/2020/DS-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 375/2019/TLST-DS ngày 31 tháng 12 năm 2019, về việc “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2020/QĐXX-ST ngày 29 tháng 5 năm 2020, Quyết định hoãn phiên hòa giải số: 16/2020/QĐST-DS ngày 15 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Ông Lê Tấn A, sinh năm 1968.

Địa chỉ: Ấp V, xã H, huyện C, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

2- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1965.

Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện A, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/9/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Lê Tấn A trình bày và yêu cầu như sau: Vào ngày 28/8/2019 ông Nguyễn Thanh H có mượn tiền của ông số tiền 10.000.000đ để cho con ông là anh Nguyễn Triết L đi đánh bắt thủy sản (có làm biên nhận tiền do ông H ký nhận). Tuy nhiên, khi anh L đi xuống ghe và ra khơi thì phát hiện hai chân của anh L giả bằng inox nên không thể thực hiện đi khai thác thủy sản được từ đó mới đưa trả anh L về nhà.

Vì vậy, ông yêu cầu ông Nguyễn Thanh H trả cho ông số tiền đã mượn là 10.000.000đ. Ngoài ra ông không có yêu cầu gì thêm.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh H Tòa án đã tống đạt hợp lệ gồm: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Tuy nhiên, ông Nguyễn Thanh H cũng có làm bản tờ trình ngày 06/01/2020 như sau: Ông thừa nhận vào ngày 28/8/2019 ông có mượn tiền của ông Lê Tấn A 10.000.000đ, ông trực tiếp nhận tiền và ký biên nhận nợ để cho con ông Nguyễn Triết L đi ghe biển, khi con ông đi ghe được 5 ngày thì không còn đi ghe nữa lý do hai chân con của ông bằng inox. Nay ông đồng ý trả cho ông Tấn A 10.000.000đ, nhưng hiện gia gia đình khó khăn quá xin trả dần mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi dứt điểm số tiền trên.

Tại phiên tòa hôm nay, ông Lê Tấn A vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu ông Nguyễn Thanh H trả cho ông số tiền là 10.000.000đ, đồng ý cho trả dần mỗi tháng là 1.000.000đ cho đến khi dứt nợ.

Tại phiên tòa hôm nay, ông Nguyễn Thanh H vắng mặt. Quan điểm của đại viện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, của Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Tuân thủ và chấp hành đúng theo quy định của pháp luất.

Về giải quyết vụ án: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Tấn A về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Buộc ông Nguyễn Thanh H trả cho ông Lê Tấn A số tiền 10.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa hôm, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Xét yêu cầu của đương sự đối nội dung về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” và bị đơn có nơi cư trú trên địa phận hành chính của huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang nên căn cứ Điều 26 và các điểm a, c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2] Phần thủ tục tố tụng: Đối với ông Nguyễn Thanh H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt đối với ông Nguyễn Thanh H.

[3] Về nội dung vụ án: Ngày 28/8/2019, ông Nguyễn Thanh H có mượn của ông Lê Tấn A số tiền là 10.000.000đ, mục đích ứng trước để cho con là Nguyễn Triết L đi ghe biển, việc mượn tiền hai bên có làm biên nhận với nhau.

Tuy nhiên, sau khi anh Triết L đi xuống ghe ra khơi đánh bắt thủy sản thì phát hiện hai chân của anh L giã gắn bằng inox không thể thực hiện đánh bắt thủy sản nên chủ ghe trả anh L về nhà, việc vay tiền trên cũng được ông Nguyễn Thanh H thừa nhận và đồng ý trả cho ông Lê Tấn A (tại bản tường trình ngày 06/01/2020 BL 15). Từ đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của ông Lê Tấn A là có cơ sở nên chấp nhận, buộc ông Nguyễn Thanh H trả cho ông Lê Tấn A số tiền là 10.000.000đ là dứt điểm.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của ông Lê Tấn A được chấp nhận nên ông Nguyễn Thanh H phải chịu tiền án phí là 10.000.000đ x 5% = 500.000đ.

Hoàn trả lại cho ông Lê Tấn A số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 250.000đ, theo lai thu số 0008359 ngày 31/12/2019 của Chi cục Thị hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

Xét về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận như đã nhận định nêu trên.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 463 và Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Điều 26, điểm a, c khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Tuyên xử:

1- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Lê Tấn A về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Buộc ông Nguyễn Thanh H trả cho ông Lê Tấn A số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Kể từ ngày ông Lê Tấn A có đơn yêu cầu thi hành án mà ông H không trả hoặc trả không đủ số tiền cho ông Tấn A thì ông H còn phải trả thêm lãi cho ông Tấn A theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 trên số tiền còn lại.

2- Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Nguyễn Thanh H phải chịu tiền án phí là 500.000đ (năm trăm ngàn đồng).

Hoàn trả lại cho ông Lê Tấn A số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 250.000đ (hai trăm năm mươi ngàn đồng), theo lai thu số 0008359 ngày 31/12/2019 của Chi cục Thị hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

3- Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, báo cho ông Tấn A có mặt biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 30/6/2020). Đối với ông H vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn luật định 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 11/2020/DS-ST

Số hiệu:11/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về